Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Ông có rất nhiều sáng tác nổi tiếng và khi chúng ta theo dõi hành trình thơ Vũ Hoàng Chương ta cảm nhận được nhiều sự thay đổi. Đặc biệt từ khi cho ra đời tập thơ Lửa từ bi ta càng cảm nhận sâu sắc hơn điều đó. Để rồi đến tập thơ Cành mai mộng trắng ta càng cảm nhận sâu sắc hơn. Và đó cũng chính là cách nhà thơ dùng ngòi bút của mình cho công cuộc đấu tranh. Dưới đây, tapchivannghe.com sẽ giới thiệu đến các bạn những bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong tập Cành mai trắng mộng.
Tự thân tác nghiệp
Đá nhập mình cây, hồn nở tươi.
Hồn cây vào hát ngọt môi người
Sao người chuyển kiếp về thân đá
Hồn vẫn khư khư mộng vá trời?
Phương trời thiên cổ
Súng đâu ba bẩy tiếng vang rền,
Hỏi trái mơ nào rụng trước tiên?
Ngóng một phương trời thăm thẳm ấy,
Ngàn thu người đẹp vẫn cô miên!
Tiếng địch hồn quê
Liễu gẫy cành, mai rụng trắng hoa,
Tơi bời tâm sự mấy đêm qua…
Hồn quê nghẹn nhịp cầu mưa nắng,
Ảo ảnh tan trong tiếng địch nhòa.
Ướm hỏi thời gian
Dĩ vãng – gia tư của tháp Hời –
Mòn theo bóng tháp đá gầy rơi…
Bóng trong gương của nàng nhan sắc
Vốn liếng – theo ngày xuân có vơi?
Làm chi cho phải?
Bốn phương trên ngựa làm anh hào,
Trên gối mơ làm bướm được sao?
Hỡi kẻ trên sông làm khói sóng,
Làm mây trên núi mới là cao!
Giữa mùa nắng gắt
Tận đáy mùi hương giấc cỏ chìm;
Đỉnh cao tiếng hót đậu hồn chim.
Lá thư tình đợi trời xa tắp,
Dưới bóng nào đây ngủ trái tim?
Trời Phật hiểu chăng
Người giết người xong chạy tức thì
Mồi ngon chẳng gặm chẳng mang đi.
Rừng sâu cọp đói nhìn kinh ngạc…
Đảo mắt gầm lên, không hiểu chi!
Lòng trai mới lớn
Sóng mở cờ mây bóng nguyệt lồng,
Đoàn quân nghiêng nước kéo sang sông
Vũ y từng đợt vàng bay hịch,
Bờ cỏ trai tơ thoắt rối bồng.
Hoạ sĩ là ai?
Nét vẽ sông Vàng ngược nẽo xanh.
Buông tay, hồn ở lại trong tranh.
Hòa theo bóng sáng về Nguyên Thủy,
Từ đấy phàm thân bỗng nổi danh!
Khí thiêng Hồng Lĩnh
Nổi gió thu lên ngọn kiếm dài;
Vàng đâu bén tiếng, sắt đeo đai…
Non cao nước chảy không cần biết
Còn có bao giờ ai khóc ai!
Chiến sĩ vô danh
Siết cánh mài cho sắc tiếng dao,
Đêm đêm dế chém loạn trời sao…
Ngoài khơi Trái Đất, phi thuyền lạ
E đứt đường bay, chẳng dám vào.
Ảo ảnh sa mạc
Thành xây trên cát, lẽ nào ư!
Hãn mã hoài công Thành Cát Tư…
Sa mạc chỉ còn đây: ảo ảnh
Ngai vàng lật ngược giữa không hư!
Tâm tình bạn trai
Kể lại đời nhau… chợt khóc òa
Bên này bên nọ một thân hoa…
Kiều Nhi, mộng buộc thuyền chưa tỉnh
Nghe dậy cuồng phong, tóc rối xòa.
Hình bóng mất còn
Quảng-đảo bom thiêu ngọc đá tàn
Bóng ai cầm súng vẫn chưa tan…
Thiếu Lâm chùa cổ, nghe trên vách
Bóng Đạt Ma ngồi bật tiếng than.
Hồn thơ họ Lý
Lấy rượu làm binh khởi thế công,
Bầu trời tan dưới gót thi ông.
Men vàng dốc nguyệt đêm quăng chén,
Một nước thanh bình mở giữa sông.
Giòng kia hẳn đẹp
Nhân loại đêm nào tới Ngã Ba,
Rẽ sang giòng Điện, lối sao sa.
Chừ… sao nhiễm độc tan thành bụi;
Có tiếc giòng Thơ, nẻo suối Hoa?
Bão giải tù đi
Nhà trôi theo nước cuốn mênh mang;
Người giạt trôi theo, nghẹt Suối Vàng.
Áp giải tù nhân, kìa ngọn sóng
Vung roi dằn mặt, giáo đâm ngang.
Cứ điểm cuối cùng
Sóng một cao dần, đất một xa…
Mong gì gửi xác lại quê cha!
Nhìn nhau chẳng dám cùng rơi lệ;
E nước tràn lên ngập mái nhà.
Vô tình hơn bão
Phong ba vừa mới tạnh dư âm,
Vút cánh “hồng” bay, đạn réo ầm.
Người cứu người, sao người nỡ hại?
Vô tình cho đến bao còn “tâm”!
Đường xa nghĩ nỗi…
Long-thành đâu nhỉ? Phượng-thành mô?
Lê, Nguyễn: hai giòng lệ cố đô!
Lệ chảy… chảy xuôi… tràn bến Nghé;
Giật mình! Nam hải sóng lô xô…
Đáy lòng nhân loại
Hai phương đào mãi xuống bề sâu,
Hai kẻ lưu đày bỗng gặp nhau
Ở điểm sáng chưng, lòng Trái Đất;
Cơn cười nẩy lửa vết thương đau.
Gương treo nhật nguyệt
Sáu chục thành nghiêng đón Nữ vương,
Em theo chị… cũng gái phi thường!
Một phen bóng ngọc nhòa sông Cấm,
Nước Việt hai vầng đẹp mãi gương.
Ngôn ngữ thần linh
Giàn hỏa nào kia, giữa bất ngờ,
Phóng lên quỹ đạo một Bài Thơ?
Đêm Hoa-thịnh đốn nhày Hương-cảng
Chợt hiểu nhau qua mọi bến bờ…
Tuổi đá Nữ Oa
Mài gươm từ lúc nguyệt còn non;
Gươm sáng dần, sao nguyệt chẳng mòn?
Hay vết thương Trời loang rộng mãi
Cho năm sắc đá tuổi xuân tròn?
Cung đàn lỗi nhịp
Mẹ con đàn Sói vẫn chưa già;
Ôi nét kiêu hùng tượng đá hoa!
Xót nỗi phế vương lòng nguội lạnh,
Đường bay còn dẫn tới Rôma.
Nỗi mừng Do Thái
Nghe quanh Biển Chết đá hồi sinh
Gấm vóc từng trang hiện Thánh Kinh.
Chới với bàn tay bao thế kỷ
Run run mở lại chính quê mình.
Xác đá hồn mai
Trắng mộng cành mai xót Bạch Vương
Ai say ca quán?.. ngủ sa trường?
Ngôi lầu Hưng Phế, rèm Hoa Đá
Cạn máu rồi… trơ những lóng xương!
Còn biết làm sao
Hàng cây xõa tóc chạy đâm nhào
Ngược với chiều xe chúi mũi lao…
Trước mặt có gì nguy? Hẳn thế!
Không dừng lại được, biết làm sao!
Trên đây chúng tôi đã giới thiệu tới bạn các bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Cành mai trắng mộng. Đây là một trong những tập thơ hay của nhà thơ này. Đó cũng chính là cách nhà thơ đã lan tỏa đến những người yêu thơ và công cuộc đấu tranh lúc bấy giờ. Đừng quên cùng chúng tôi tìm hiểu các bài thơ tiếp theo của nhà thơ Vũ Hoàng Chương bạn nhé!