Năm 1963 khi Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu cho nhân quyền Việt Nam, Vũ Hoàng Chương xúc động vô cùng và ông đã viết bài thơ Lửa từ bi mà nhiều người Phật tử đã thuộc lòng. Hành động tự thiêu của Hoà thượng Quảng Đức đã làm chấn động tâm can Vũ Hoàng Chương, đã biến Vũ Hoàng Chương thành một con người khác và Vũ Hoàng Chương đã thấy rằng mục đích của con người là để xây dựng tình huynh đệ. Vũ Hoàng Chương đã đem cả thân mạng và sự sống của mình tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động để tranh đấu cho hoà bình tại Việt Nam từ 1963 cho đến 1977.
Dưới đây là bài tác Lửa từ bi của Vũ Hoàng Chương mà tapchivannghe.com muốn chia sẻ đến các bạn, cùng cảm nhận bài thơ này nhé!
Lửa từ bi
Kính dâng lên BỒ-TÁT QUẢNG-ĐỨC
Lửa! Lửa cháy ngất Toà Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên…
Ôi, đích thực hôm nay Trời có Mặt!
Giờ là giờ Hoàng-Đạo nguy nga.
Muôn vạn khối sân-si vừa mở mắt
Nhìn nhau: tình huynh-đệ bao la.
Nam mô ĐỨC PHẬT DI ĐÀ
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ
PHẬT-PHÁP chẳng rời tay…
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.
Không khí vặn mình theo
khóc oà lên nổi gió
NGƯỜI siêu thăng…
giông bão lắng từ đây.
Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ-Đề.
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!
Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.
Ôi ngọn LỬA huyền vi!
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
Từ cõi Vô-Minh
Hướng về Cực-Lạc.
Vần điệu của thi-nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời Kinh;
Tụng cho nhân loại hoà bình
Trước sau bền vững tình huynh-đệ này.
Thổn thức nghe lòng Trái Đất
Mong thành Quả Phúc về Cây.
Nam-mô THÍCH CA MẦU NI PHẬT
Đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt
tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.
Người với người
(Thông-điệp của MỘT gửi cho TẤT CẢ)
Chúng ta đều là NGƯỜI
Đều thế đứng cao sang
đều sắc máu đỏ tươi
Đều hãnh-diện trên muôn loài ngự trị,
Nhưng buồn thay… một phút nào kia
nếu không gian chẳng còn dưỡng khí
Cũng đều ngã ra chấm hết cuộc đời.
Sao các bạn, các anh, các chị
Ở nơi đây và tất cả những đâu nơi
Lại quên được – sao mà quên được nhỉ? –
Rằng “thịt da ai cũng là NGƯỜI”?
Nhân loại đã từng rên xiết
Đói rũ xương và khát cháy thiêu môi,
Quằn-quại với nhu cầu khẩn thiết
Qua bao thế kỷ nay rồi.
Tật bệnh, tai ương, điêu tàn, huỷ diệt,
Biển mặn ư? – Máu, lệ, mồ hôi!
Chính các chị, các anh, các bạn
Cũng có lửa khắc sâu lên trán
Từ sơ-sinh hai chữ CON NGƯỜI
Cũng mang nặng bùn nhơ kết khối phàm thai,
Cũng dương mắt bao phen
giữa dòng sao thác loạn
Cũng lê chân qua mờ mịt đêm dài,
Cũng da thịt biết đau từng vết rạn
Ở mỗi tế bào phân tán
Khi nắng đốt trên đầu gió quất trên vai.
Nhìn nhau, đây đấy một loài;
Xót xa nhau chút hình hài với nao!
Nhớ xưa Nhạc, Huệ,
Cùng tranh ngôi cao
Một lời thống thiết
Muôn đời gởi trao:
“Nồi da nấu thịt
Lòng em nỡ nào?”
Một con ngựa đau cả tàu nhịn cỏ,
Loài vật kia chẳng cũng dạy NGƯỜI sao?
Búa nện xương kêu, gậy đập máu gào
Đáng lẽ phải vang rền tim óc bạn,
Và chát chúa hồi thanh trong huyết quản
Dựng gươm đao cắt chính thịt da mình.
Lẽ đâu các bạn làm thinh
Nhìn CON NGƯỜI hiện nguyên hình ĐAU THƯƠNG.
Các chị các anh còn biết khóc
Mỗi xa người thân, chia uyên ương,
Còn biết những canh dài trằn trọc
Nhớ quê nhà chìm trong khói sương,
Còn trang sử ông cha mở đọc
Biết rưng rưng sôi chí quật cường,
Hẳn còn tim còn óc
Còn nhân luân còn linh tính
còn thiên lương;
Sao có thể đeo vết nhơ làm ngọc
Xức mùi tanh làm hương?
Kìa máu, máu!
Vết nhơ ấy lột da đi không tróc
Mùi tanh ấy quyện vào hơi vào tóc
Như mọc lên như sờ thấy trong gương;
Bóng mình chăng? Hay đó Quỷ Vô-Thường?
Không, ngàn lần không;
Chúng ta không phải Quỷ!
Mà hết thẩy các anh các chị
Với tôi cùng một loài NGƯỜI,
Tuổi ý-thức đã hàng trăm thế-kỷ
Dù, nói cho khiêm nhượng, mới HAI-MƯƠI.
Đau khổ đã cắt ngang vào não tuỷ
Nghĩa TỪ-BI xây dựng cứu đời;
Thì tin rằng mai đây và khắp nơi
Bóng HOẠT-PHẬT lung-linh đài TỬ-SĨ;
Muôn ngọn hải-đăng
Tỉnh hồn cơ-khí,
Bằng ánh sáng “vô chung vô thỉ”
Soi đường Khoa-học giữa mù khơi.
Những mầm mống TƯƠNG-TÀN, KỲ-THỊ
Như lá mùa thu phải rụng rơi.
Nhân-loại hiển chân-thân
cũng tìm ra chân-lý:
Đức HIẾU-SINH vằng vặc ngôi Trời…
Vững lòng tin ở XA-VỜI,
Bàn tay chẳng nhuộm máu NGƯỜI, giơ lên!
Gẫy một cành mai
Lòng son búa sắt
Tay chặt bàn tay
Dâng lên cúng Phật.
Máu hoà mưa bay…
Chén cơm thường nhật
Oan khổ đã đầy
Giờ đây, Mai đây
Một còn một mất
Trời đất cùng hay
Búa năm nhát, nát bàn tay,
Xé tung xương thịt cho bay lời nguyền.
Bàn tay NGUYỆN-VỌNG
Chặt đi còn nguyên
Chẳng BẠO mà ĐỘNG
Một ngăn mười truyền
Tay PHẬT năm ngón
Giam cả Tề-Thiên
Núi lật năm ngọn
Không tha cường-quyền.
Đó đây mài sẵn Long-tuyền
Búa năm nhát, phát lời nguyền cho Mai!
lời nguyền son sắt
lạy PHẬT-NHƯ-LAI
một điểm linh-đài
cứu cho đừng tắt.
Để những ai ai
Có mắt mở mắt
Còn tai lắng tai.
Nhìn thấu xương Mai
Tấm lòng Trời Đất
Nghe vang búa chặt
Nỗi đau cùng loài…
Biển Đông, ải Bắc, non Đoài,
Vọng về Nam, thét cho dài hồi thanh!
Bàn tay nguyện nối Trường-thành
Nửa chừng xuân, gẫy một cành sá chi.
Lòng Mai hướng cửa TỪ-BI
Khác đâu lòng ấy hoa quỳ hướng dương.
Chín phương mười phương
Giữa cuộc nhiễu nhương
Đã về hợp nhất…
Gió tung cờ phất
Thề lật bạo cường
Khẩu hiệu lên đường:
Không lùi chẳng khuất!
Dưới lằn roi quất
Vung gậy KIM-CƯƠNG
Đối diện Ma-Vương
Một còn một mất.
Oan cừu chứa chất
Mờ mịt Âm Dương
Nghẹn máu quằn xương
Tím gan ứ mật;
Lửa bùng cao ngất
Từ rẫy từ nương
Từng chợ từng trường
Khắp trời khắp đất,
Cháy lên rần-rật
Thành nén tâm hương.
Xin rủ lòng thương
Muôn loài muôn vật,
Giải thoát tai ương;
A-DI-ĐÀ-PHẬT!
Một cuộc bể dâu
Tập Kiều)
Cơ trời dâu bể đa đoan
Nỡ đày đoạ trẻ càng oan khốc già.
Phật-tiền ngày bạc lân la
Đầy sân gươm tuốt sáng loà… thất kinh!
Gió mưa âu hẳn tan tành
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Hằm-hằm sát khí ngất trời
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
Con ong cái kiến kêu gì
Trông lên mặt sắt đen sì… lập nghiêm.
Vì ai rụng cải rơi kim?
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Vì ai ngăn đón gió đông?
Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Điếc tay lân tuất phũ tay tồi tàn.
Một nhà vinh hiển, riêng oan…
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người!
Phật-tiền thảm lấp sầu vùi
Nghe tin ngơ ngác rụng rời xúm quanh
Qui Sư qui Phật tu hành
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
Người yểu điệu kẻ văn chương
Gan càng tức tối dạ càng xót xa.
Giáp binh kéo đến quanh nhà
Đang tay rập liễu vùi hoa tơi bời.
Đau đòi đoạn ngất đòi hồi
Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.
Ba cây chập lại một cành…
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên.
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền…
Sự này hỏi Thúc Sinh – Viên mới tường.
Xiết bao đoạn khổ tình thương
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
Sư rằng: Phúc hoạ đạo Trời,
Giẽ cho thưa hết một lời đã nao.
Đường xa chớ ngại Ngô Lào
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần.
Tin sương đồn đại xa gần
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Lão kia có giở bài bây
Cũng là mặt dạn mày dày khó coi.
Còn non còn nước còn dài
Quây nhau lạy trước Phật đài… tá sinh.
Thêm nến giá nối hương bình
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Dư ba
Sống giữa chiêm bao vạn mối tình
Trắng tay mình lại vẫn riêng mình
Lưỡi gươm mài nguyệt còn vô dụng
Ngòi bút xuyên mây cũng bất bình
Dâu bể nghe đau lòng trái Đất
Gối chăn đợi ngát tiếng hoa Quỳnh
Nhắn ra muôn dặm về muôn thuở:
Vì cái TÂM nên luỵ cái HÌNH.
Hoa nào ấm mộng?
Từ hoa vương giả đến hoa hèn
Bướm cũng vừa say đã nhạt men
Giận khắp loài thơm lòng chẳng ấm
Còn chăng đâu đó LỬA ĐÀI SEN!
Tận thế rồi chăng?
Phật nắm bàn tay lại… Bỗng dưng
Kiếp người ba ngả tối như bưng
Đường Yêu, đường Sống, đường May Rủi
Xa mãi đường Tu chẳng chịu dừng.
Vòng đai vương miện
Bạo lực cười lên một chuỗi dao
Sáng choang vương miện giữa trời sao
Một mai Trái Đất này tan vỡ
Há bởi Vòng Đai Phóng Xạ nào!
Khoa học loài người
Dưới trận đòn tra, sức điện quay
Tiếng kêu vỡ ngực xé trời bay
Nửa phần nhân loại ngây-thơ hỏi:
Một vệ-tinh nào phóng nữa đây?
Tiếng khóc giờ đây
Phật có bàn tay dẹp bất-bình
Cả ngàn con mắt chiếu vô-minh
Chỉ đôi tai Phật, sao nghe xiết
Tiếng khóc giờ đây của chúng sinh!
Trời cao Phật hiện
Trời lưu ly hiện Phật Kim Cương
Mây bạc thân vàng nét tỏ gương
Quạ lửa càng sôi cơn thịnh nộ
Càng in bóng ngọc xuống mười phương.
Lưới trời lồng lộng
Nghe tin Quốc-Giáo bị gia-hình
Ấn-Độ-dương kêu biển Thái-Bình
Vạn ngả nước dâng về hỏi tội
Năm mười miệng cũng hết thanh minh.
Diều cháy lưng trời
Vận nước dầu sôi trải nấu nung
Nhiệt-tâm càng đỏ nén hương chung
Lá bên Ngô dẫu còn no gió
Gặp lửa TỪ-BI cũng cháy bùng.
Linh sơn Phật khóc
Phật ngự Tòa Sen… khối xót thương
Vỡ ra thành lệ, ngấn còn hương
Lung linh giọt ngọc từng giây phút
Tẩy sạch ngai vàng bóng Quỷ-Vương.
Lửa gọi đồng thưa
Ngọn lửa Từ-Bi gọi cảm thông
Bảy lần sôi máu khắp non sông
Đàn con Đức Mẹ quỳ, rơi lệ
Chuông Thánh-Đường vang dội tiếng đồng
Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương hay mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ cùng với bạn. Thông qua bài thơ này bạn sẽ hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ này. Cũng như hiểu thêm được những giá trị mà các bài thơ này muốn chuyển tải.