Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 1916 – 6 tháng 9 1976) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương.

Ông có nhiều tập thơ hay độc đáo và đặc sắc. Trong đó không thể không nhắc tới tập Rừng phong (1954). Trong số các bài thơ của tập này có bài Nguyện cầu rất được các độc giả yêu thích. Dẫu bài thơ tuy hay vẫn chưa có giác ngộ của một người giác ngộ. Hãy cùng tapchivannghe.com tìm hiểu các bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập Rừng phong bạn nhé!

Nguyện cầu

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc, bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ, dù sạch đừng vương gót này
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất, hơi tàn thanh âm

Thoát hình

Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả tới đài xuân
Đã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần

Vườn đây rừng đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần

Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần
Phá cho thành đấy, sinh là diệt
Đời “quả” lên từ mỗi xác “nhân”

Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết
Từng khóc từng reo đã mấy lần

Nhựa ứ càng cao niềm giục giã
Đất trời mong mỏi nứt hương lân
Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình trong phút nhập thần

Ôi đã then sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo rực ý thanh tân
Có ai tha thiết ngoài mây nước
Chờ lối Đào-nguyên tự mở dần

Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Đêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái ân

Bài ca sông Dịch

Đời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu
Bàng bạc trường giang lạnh khói
Đìu hiu điệp khúc ly sầu
Đã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch
Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Đông Châu
Ôi sông ngát dư linh! trải bao đời có biết
Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu
Phải chăng ngươi! phải chăng kìa dấu vết
Tình anh rờ rỡ ngàn sau
Nước trôi đây nước trôi bờ cõi Việt
Âm u gợn tiếng ghê màu
Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt
Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu
Kinh Kha hề Kinh Kha
Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách
Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca
Biên thuỳ trống giục
Nẻo Tần sương sa
Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà
Buồn xưa giờ chưa tan
Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn
Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới
Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên
Nhịp vó câu nẻo Hàm dương tung bụi
Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên
Tám phương trời khói lửa
Một mũi dao sang Tần
Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ
Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân
Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu
Mà thương cho cánh tay thần
Ta chỉ thấy
Tơi bời tướng sĩ thây ngã hai bên
Một triều rối loạn ngai vàng xô nghiêng
Áo rách thân rung hề ghê hồn bạo chúa
Hùng khí nuốt sao Ngâu hề nộ khí xung thiên
Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ
Hiệp sĩ Kinh Kha hề người thác đã nên
Ta há quan tâm gì việc thành hay bại
Thế gian ơi kìa bãi bể nương dâu
Cung điện Hàm dương ba tháng đỏ
Thành xây cõi dựng là đâu
Nào ai khởi nghiệp đế
Nào ai diệt chư hầu
Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư
Dù lăng ngà hay cỏ khâu
Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa
Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu
Một nét dao bay ngàn thuở đẹp
Dù sai hay trúng cũng là dư
Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại
Đã trùm lấn Yêu Ly hề át Chuyên Chư
Ôi Kinh Kha
Hào khí người còn sang sảng
Đâu đây loà chói giấc mơ
Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn ?
Gương anh hùng vằng vặc sáng thiên thu!

Ngẫu cảm

ao lên từng nụ ngọc lưu ly
Trái đất còn xanh chẳng vội gì
Hồ giỡn gót sen mây bạc đắm
Sông trôi tóc liễu gió vàng si
Trời mong thu tới cao vầng trán
Núi hẹn xuân về đậm nét mi
Cặp mắt trùng dương vừa gợn sóng
Kìa hoa đương độ nguyệt đương thì

Sống giữa chiêm bao vạn cuộc đời
Trắng tay sầu ngất tám phương trời
Thanh gươm quyết tử mài chưa bén
Ngọn bút mưu sinh giá cũng hời
Dâu bể hoang mang lòng phật khóc
Gối chăn lạnh lẽo tiếng ma cười
Bên sông từ đấy hoa mai nở
Không chút cuồng si tưởng bóng người

Trời vô tâm quá đất vô tình
Biết gửi vào đâu cái-chính-mình
Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
Màu đen lại ngả xuống màu xanh
Uổng cho thơ dẫu bầy trăm trận
Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành
Tưởng tới nguồn đào thôi lại tiếc
Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh

Trở gót quê say ngược Suối Điều
Nét hoa mờ tỏ sóng phiêu diêu
Lên tiên về tục thương Từ Thức
Lấy ảo làm chân học Thuý Kiều
Vạn thuở đắng cay gì đỗ vũ
Một cành yên ổn chứ tiêu liêu
Đường xuôi cây đá bừng nhân ảnh
Cầu quạ chênh vời nguyệt té xiêu

Lửa khoá then mây bốn vách trời
Về đâu mộng cũng chẳng đành nơi
Vẫn chưa ý gửi vào thơ được
Mà đã dâu toan hoá biển rồi
Ngọn gió nghe chừng xoay mãi hướng
Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi
Tin xuân lạnh lắm rồng ao cạn
Há chỉ phòng thu lệ nến rơi

Này lúc ngàn hoa đẹp sắc hương
Ghen gì tô điểm, hỡi Thu Nương
Cay men đối cảnh ngùi muôn thuở
Ôm bệnh lên lầu cảm bốn phương
Thuyền mộng đã trôi vào lửa khói
Tơ tình lại dệt xuống văn chương
Áo xanh buổi ấy màu thêm bạc
Mái tóc lo đời cũng nhuốm sương

Mộng đẹp

Tin mùa xô vỡ chiêm bao
Liềm treo lệch bấc, trăng vào đầy song
Mây Đằng vương, khói A Phòng
Đê mê nửa gối hàn phong, giật mình
Trai thơ gái nhạc đêm quỳnh
Giữa chừng vui, sáo ly đình véo von
Tiêu Tương nhòa nẻo phấn son
Trắng tay, ngờ lại màu non nước Tần
Canh gà vang lối dương trần
Còn nghe nức nở thu phần tiếng ai
Chiếu chăn sực nức hương nhài
Xác con hồ điệp chưa ngoài giường thu

Thảnh thơi

Ta nằm thanh thản trong Cây
Bóng tỏa vô biên lồng lộng Sắc
Rễ uốn tràng giang ngoài thôn khói vườn mây
Thu gọn thời gian vào chớp mắt
Nền Âm Dương ngự thuở bắt đầu xây

Muôn vàn tinh tú thơ ngây
Hoa nở đèn treo tám phương vằng vặc
Ta đã vừa đây
Chiếm đoạt ngôi Trời khoảnh khắc
Đem lửa Thiên Cung về Cao mắc trên Cây

Đời có biết khu vườn xa lắc
Cây vĩ đại, gốc ta trồng Cực Bắc
Cành suốt Cung Nam hề lá rợp Đông Tây

Mộng tới gì đây hề nhớ được gì đây
Hồn không cánh bổng ngao du hề kim cổ phút giây
Ai rằng ta điên? cũng ừ rằng ta say
Gã viết Ly Tao Từ! ngươi tỉnh, hoài thay

Xác phàm ta vẫn nằm đây
Áo manh thu muộn, lều tranh hơi may
Bấc thơm hồ lụn, bầu men không đầy
Chỉ lật bàn tay hề, chưa lật bàn tay
Vạn tượng khinh thanh vẫn mờ không chút gợn

Mà trọn giấc tiêu dao hề Vô Cùng to lớn
Giấc thiên du trùm hết Cao Dày
Lòng cỏ bồng kia hư nhiên còn ngợp rợn
Nghe bể Bắc trời Nam vào cây đó lều đây

Bụi trần nho nhỏ
Tinh cầu hây hây
Khuất Nguyên! Khuất Nguyên hề! ta nào ta say

Bài ca dị hoả

Đêm hoả táng trần tâm, cõi đời nghiêng đổ
Thịt xương ôi! nằm nhé đất oan khiên
Trần cấu lâng lâng ngoài cửa mộ
Ta thoát hình, nương khói bay lên

Bắc đẩu ngang trời bạch lạp
Mây chiều nghi ngút toà sen
Khối kim ô bừng đỏ nén hương đền

Tịch mịch! hỡi ơi cuồng dạ
Say, ta đốt Thời Gian trong dị hoả
Tro tàn nẩy thắm quanh bên
Ngai son trầm mặc, sầu Đông Á
Ngủ nụ cười rêu tượng Đế-thiên
Bóng oanh liệt, Đồ-bàn Kim-tự
Ai hoài dâu bể tháp cô miên
Khoảnh khắc bỗng mang mang hồn gạch đá
Rụng muôn đời bi phẫn máu chim quyên

Bể xanh rũ áo tang điền
Tinh cầu trở gót
Quay về buổi mới khai thiên
Phấp phới Hư Không, kìa muôn loài hỗn hợp
Trái đất ban sơ, này khối lửa y nguyên

Ta say, ta đốt
Ta nằm, ta quên
Và ta nhớ, thuở lòng ta lẫn một
Với âm dương, đằm thắm ý giao duyên
Là đây ngọn lửa đoàn viên
Khói hương tiền sử bên đèn nao nao

Nỗi buồn sông núi

Ta đến nhân gian lạ cõi bờ
Này sông lưu lạc, núi chơ vơ
Nỗi buồn sông núi, ai người biết
Máu cũng chưa hề rỏ phím tơ

Non khóc mùa xuân nước đợi thuyền
Ôi, non tàn cục! nước vô duyên
Sóng bao giờ nhỉ, chèo thi bá
Rừng trọn đời thôi lệ đỗ quyên

Vụt sáng đêm nao lối thệ nguyền
Hồn say thông cảm ý sơn xuyên
Hương xưa khoảnh khắc về tươi ngọn
Nhạc mới vang dòng một kỷ nguyên

Cho ngọn núi, dòng sông từ đó
Hương ngàn xưa bén nhạc ngàn sau
Riêng ta, mười ngón thơ còn đỏ
Lòng Trích Tiên còn vạn kiếp đau

Duyên mùa tận thế

Giây khắc trầm tư loạn dáng màu
Trời ơi — Hồn Cả nghẹn thương đau
Thế gian đương tự tay đào huyệt
Địa phủ gần kia — lửa vạc dầu.

Bốn phương bể héo non nhầu
Đông tan Đoài vỡ, tinh cầu ngửa nghiêng
Nằm đây u uất đài thiêng
Dư ba gợn đắng niềm riêng một người.

Thiên lương quằn quại giữ màu tươi
Thể chất còn thoi thóp nhạc trời
Dạo xứ phân tranh mùa hỗn độn
Biết lòng ta vẹn, nhé Xa Khơi!

Lệ tuôn vòm khói châu rơi
Cũng hoài như ngọc vang cười thác men
Sóng chai cựa dáng hoa đèn
Môi nào thuộc, mắt nào quen, ta chờ!

Đợi ai về ngự sáng ngai Thơ
Người bạn đầu tiên thuở bấy giờ
Ước cũ: tái sinh ngày tận thế
Tìm nhau cùng nối mộng ban sơ.

Cánh bằng siêu thoát hư vô
Sau lưng bỏ sụp cơ đồ trần gian
Ngẩng lên: Nàng vẫn hồng nhan
Đê mê ánh bút hương đàn chầu quanh.

Chừ đây Trái Đất vỡ tan tành
Em đã về kia gặp lại anh
Nụ chúm nhung đào tươi lửa bấc
Thu ba nồng rượu khóe long lanh.

Phù du trọn cuộc viễn hành
Trăng tà treo đỏ, mây thành chắn ngang
Trầm luân vụn đá phai vàng
Bước ra ngoài giấc mơ màng đón nhau.

Thôi mặc Thời Gian liệng Trái Sầu
Gác tai ngựa hí cuốc gào đau
Dang tay trở gót về Nguyên Thủy
Rào kín vườn xưa khép cánh lầu.

Đôi ta dựng một Thiên cầu
Bể xanh vĩnh viễn nương dâu đời đời
Tiền sinh ôn việc đổi dời
Xiết bao ngời vực… Kiếp người đó ư?

Bài ca dị sử

Hồn bỗng lên hương kỳ ảo
Phút giây bừng ánh thần quang
Ta sống nhập bầy hoa thảo
Nghìn thu mộ vắng lầu hoang

Cỏ mộ truyền đời giông bão
Hoa lầu nối kiếp phong sương
Ta mở từng trang di cảo
Nằm sâu tận đáy anh hương

Này bóng xiêm nghê tiếng gót vàng
Trầm tư, hồi ảnh nép dư vang
Từng thiên chi phấn bay nùng diễm
Đạm đạm mùi da tóc nữ lang

Một thuở nào xưa lầu hẹn nguyệt
Vườn mong tin gió thiếp mê chàng
Cây khuya hàm tiếu hoa tình mới
Thu gọn trong đài nét vãn trang

Bao mùa châu rụng mỏ thư cưu
Rượu thấm quỳnh tương vạt áo cừu
Trướng lụa thang lan ngà ngọc nõn
Hoa nghiêng đầu chép sử phong lưu

Hỡi ơi! tàn mặc nét phai dần
Một buổi vườn thơm lạnh dáng xuân
Nối mục “Hoa lầu tang tóc úa”
Này trang “Thê thiết cỏ thu phần”

Lá vạn mùa sương, rễ cửu nguyên
Hằng đêm chiêu niệm vía thuyền quyên
Chùm phương thảo đã khô sầu nhớ
Chưa gọi hồn ai thức vẹn tuyền

Chỉ thoáng hàn quang lững đững qua
Chập chờn phong nguyệt tiếng cười ma
Dấu sen ngọn cỏ vương trần tích
Dạ vũ mờ bay giải nhuyễn la

Chừng như người thiếu nữ đa tình
Thể chất mồ hoang ngủ tuyết trinh
Mà áng di hồn nương vũ trụ
Sông chiều ải tối ngát anh linh

Cả một đời cô gái đẹp

Buồng khuê về đến mồ sâu –
Bằng chữ vô hình, đã chép
Vào hương cỏ mộ hoa lầu

Ôi cỏ hoa nào hận kiếp xưa
Hương bay sầu muộn tới bây giờ
Hoa ơi! hỡi cỏ ngùi hoang phế
Đã nói cùng ta cạn ý chưa

Ta thoát hồn ta nhập các ngươi
Cảm thông giây phút thấu luân hồi
Sao nghe thăm thẳm trong tiền kiếp
Muôn vạn niềm riêng vẫn nín hơi

Khép riêng trời đất cõi hư linh
Đâu chỉ vài trang sử diễm tình
Hỡi cỏ hoang phần, hoa lãnh các
Sao còn then khóa nẻo u minh

Ta níu hương hồn các ngươi
Thấp thoáng đèn mưa khói nguyệt
Ta chờ mãi mãi không thôi
Và gắng công tìm bí quyết

Hoa lầu cỏ mộ kia ơi
Có hiểu lòng ta tha thiết
Một sớm ta nằm đáy huyệt
Còn mê dị sử muôn đời

Trên đây là những bài thơ Vũ Hoàng Chương viết trong tập thơ Rừng phong. Qua tập thơ này ta cảm nhận được một chân trời cũ. Ở đâu đó có sự hư vô, sự lâng lâng. Và cũng chính là một tâm hồn muốn được giải thoát nhưng không thành. Đó cũng chính là cái hay của thơ ông. Đừng quên đón đọc phần tiếp theo của chùm thơ này bạn nhé!