Kho tàng thơ của nhà thơ Vương Duy luôn được các nhà nghiên cứu và bạn đọc đánh giá cao. Những bài thơ có ý nghĩa sâu sắc thể hiện những suy tưởng và nỗi niềm của ông. Qua những thi phẩm này, chúng ta thêm phần ngưỡng mộ người thi sĩ tài hoa và đa tài này. Thơ ông có chất hùng tráng và thâm trầm. Tài thơ của ông giàu có ở cách thể hiện những đề tài khác nhau, việc miêu tả thiên nhiên tinh tế và đầy sống động. Ông có một vị thế đặc biệt quan trọng trong nền văn học Trung Quốc, đặc biệt đối với Phật giáo đương thời, Vương Duy có địa vị cao trong Nam phái thiền tông.
Tạp thi kỳ 1 雜詩其一
君自故鄉來,
應知故鄉事。
來日綺窗前,
寒梅著花未。
Tạp thi kỳ 1
Quân tự cố hương lai,
Ưng tri cố hương sự.
Lai nhật ỷ song tiền,
Hàn mai trước hoa vị?
Dịch nghĩa
Anh từ quê cũ đến đây,
Chắc biết tình hình quê nhà.
Ngày ấy anh đến, che chắn trước cửa sổ,
Cây mai mùa đông đã nở hoa chưa?
Tạp thi kỳ 2 雜詩其二 • Thơ tạp kỳ 2
已見寒梅發,
復聞啼鳥聲。
愁心視春草,
畏向玉階生。
Tạp thi kỳ 2
Dĩ kiến hàn mai phát,
Phục văn đề điểu thanh.
Sầu tâm thị xuân thảo,
Úy hướng ngọc giai sinh.
Dịch nghĩa
Đã thấy mai lạnh ra hoa,
Lại nghe tiếng chim hót.
Ngao ngán theo dõi cỏ xuân,
Sợ chúng sẽ mọc đầy trước thềm nhà.
Tạp thi kỳ 3 雜詩其三 • Thơ vặt kỳ 3
家住孟津河,
門對孟津口。
常有江南船,
寄書家中否?
Tạp thi kỳ 3
Gia trú Mạnh Tân hà,
Môn đối Mạnh Tân khẩu.
Thường hữu Giang Nam thuyền,
Ký thư gia trung phủ?
Dịch nghĩa
Nhà ở bên sông Mạnh Tân,
Cửa nhìn ra bến đò Mạnh Tân.
Thường có thuyền từ Giang Nam tới,
(Hỏi con) đã gửi thư nhà đi chưa?
Tặng Tam Tổ Vịnh 贈祖三詠 • Tặng Tam Tổ Vịnh
蠨蛸掛虛牖,
蟋蟀鳴前除。
歲晏涼風至,
君子複何如。
高館闃無人,
離居不可道。
閑門寂已閉,
落日照秋草。
雖有近音信,
千里阻河關。
中複客汝潁,
去年歸舊山。
結交二十載,
不得一日展。
貧病子既深,
契闊餘不淺。
仲秋雖未歸,
暮秋以為期。
良會詎幾日,
終自長相思。
Tặng Tam Tổ Vịnh
Tiêu sao quải hư dũ,
Tất suất minh tiền trừ.
Tuế yến lương phong chí,
Quân tử phục hà như.
Cao quán khuých vô nhân,
Ly cư bất khả đạo.
Nhàn môn tịch dĩ bế,
Lạc nhật chiếu thu thảo.
Tuy hữu cận âm tín,
Thiên lý trở hà quan.
Trung phục khách Nhữ, Dĩnh,
Khứ niên quy cựu sơn.
Kết giao nhị thập tải,
Bất đắc nhất nhật triển.
Bần bệnh tử ký thâm,
Khiết khoát dư bất thiển.
Trọng thu tuy vị quy,
Mộ thu, dĩ vi kỳ.
Lương hội cự kỳ nhật,
Chung tự trường tương ty (tư).
Tặng Vi Mục thập bát 贈韋穆十八
與君青眼客,
共有白雲心。
不相東山去,
日令春草深。
Tặng Vi Mục thập bát
Dữ quân thanh nhãn khách,
Cộng hữu bạch vân tâm.
Bất tương Đông sơn khứ,
Nhật lệnh xuân thảo thâm.
Tân tình dã vọng 新晴野望 • Trời chiều
新晴原野曠,
極目無氛垢。
郭門臨渡頭,
村樹連溪口。
白水明田外,
碧峰出山後。
農月無閒人,
傾家事南畝。
Tân tình dã vọng
Tân tình nguyên dã khoáng,
Cực mục vô phân cấu.
Quách môn lâm độ đầu,
Thôn thụ liên khê khẩu.
Bạch thuỷ minh điền ngoại,
Bích phong xuất sơn hậu.
Nông nguyệt vô nhàn nhân,
Khuynh gia sự nam mẫu.
Dịch nghĩa
Mưa mới tạnh, đồng ruộng quang đãng, thênh thang
Hết tầm mắt, không thấy chỗ nào vẩn đục
Cổng thành tiêp giáp với bến đò
Cây trong làng chạy ra tận ven khe
Nước trắng xoá xa xa phía ngoài đồng ruộng
Những đỉnh biếc vọt cao sau rặng núi
Ngày mùa không có người ngồi rồi
Cả nhà đổ ra làm việc đồng áng
Tây Thi vịnh 西施詠 • Vịnh Tây Thi
艷色天下重,
西施寧久微。
朝為越溪女,
暮作吳宮妃。
賤日豈殊眾,
貴來方悟稀。
邀人傅脂粉,
不自著羅衣。
君寵益驍態,
君憐無是非。
當時浣紗伴,
莫得同車歸。
持謝鄰家子,
效顰安可希。
Tây Thi vịnh
Diễm sắc thiên hạ trọng,
Tây Thi ninh cửu vi.
Triêu vi Việt khê nữ,
Mộ tác Ngô cung phi.
Tiện nhật khởi thù chúng,
Quý lai phương ngộ hy.
Yêu nhân phó chi phấn,
Bất tự trước la y.
Quân sủng ích kiêu thái,
Quân liên vô thị phi.
Đương thì hoán sa bạn,
Mạc đắc đồng xa quy.
Trì tạ lân gia tử,
Hiệu tần an khả hy.
Dịch nghĩa
Vì thiên hạ trọng sắc đẹp,
Lẽ nào Tây Thi lại ở mãi trong cảnh nghèo.
Buổi sớm còn là cô gái (giặt lụa) bên khe (Nhược Da) nước Việt,
Buổi chiều đã là phi tần trong cung vua Ngô.
Thuở hàn vi nào đâu có khác gì mọi người,
Khi sang trọng rồi mới biết là hiếm có.
Nàng sai người thoa phấn thơm,
Nàng không tự mặc lấy áo lụa.
Được vua yêu quý, nàng càng thêm kiêu,
Vua thương không kể gì điều phải trái.
Những cô bạn thời ấy cũng giặt lụa,
Chẳng ai được ngồi cùng xe với nàng về cung vua.
Nàng nhắn đáp cô gái nhà hàng xóm,
Bắt chước nhăn mặt, đâu có mong được gì?
Thán bạch phát 歎白髮 • Than tóc bạc
宿昔朱顏成暮齒,
須臾白髮變垂髫。
一生幾許傷心事,
不向空門何處銷。
Thán bạch phát
Túc tích chu nhan thành mộ xỉ,
Tu du bạch phát biến thuỳ thiều.
Nhất sinh kỉ hứa thương tâm sự,
Bất hướng không môn hà xứ tiêu.
Thanh Khê 青谿
言入黃花川,
每逐青溪水。
隨山將萬轉,
趣途無百裡。
聲喧亂石中,
色靜深松裡。
漾漾泛菱荇,
澄澄映葭葦。
我心素已閒,
清川澹如此。
請留盤石上,
垂釣將已矣。
Thanh Khê
Ngôn nhập Hoàng Hoa xuyên,
Mỗi trục Thanh Khê thuỷ.
Tuỳ sơn tương vạn chuyển,
Thú đồ vô bách lý.
Thanh huyên loạn thạch trung,
Sắc tĩnh thâm tùng lý.
Dạng dạng phiếm lăng hạnh,
Trừng trừng ánh giả vĩ.
Ngã tâm tố dĩ nhàn,
Thanh xuyên đạm như thử.
Thỉnh lưu bàn thạch thượng,
Thuỳ điếu tương dĩ hỉ.
Dịch nghĩa
Người ta nói trước khi vào sông Hoàng Hoa
Thì ta qua dòng Thanh Khê
Theo núi uyển chuyển uốn khúc bao nhiêu lần
Nhưng gần xa cũng chưa tới trăm dặm
Nước chảy róc rách trên đá ngổn ngang
Tùng nằm yên lặng trong rừng sâu thẳm
Nước sóng sánh xô đẩy cây nước
Ánh sáng phản chiếu rọi trên những cây lau
Lòng tôi xưa nay vốn vẫn an nhàn
Làn nước xanh (thanh) đạm như thế
Xin dừng nơi tảng đá lớn này
Quăng cần câu xuống cứ thế mà qua ngày
Thiếu niên hành kỳ 1 少年行其一
新豐美酒斗十千,
咸陽遊俠多少年。
相逢意氣為君飲,
繫馬高樓垂柳邊。
Thiếu niên hành kỳ 1
Tân Phong mỹ tửu đẩu thập thiên,
Hàm Dương du hiệp đa thiếu niên.
Tương phùng ý khí vị quân ẩm,
Hệ mã cao lâu thuỳ liễu biên.
Dịch nghĩa
Rượu Tân Phong giá hàng chục ngàn tiền một đấu,
Trong số khách tới Hàm Dương có nhiều người trẻ tuổi.
Họ cùng chung ý khí tới uống mừng gặp gỡ,
Buôc ngựa vào thân hàng dương liễu rủ bên cao lầu.
Thiếu niên hành kỳ 2 少年行其二
出身仕漢羽林郎,
初隨驃騎戰漁陽。
孰知不向邊庭苦,
縱死猶聞俠骨香。
Thiếu niên hành kỳ 2
Xuất thân sĩ hán vũ lâm lang,
Sơ tuỳ phiêu kỵ chiến Ngư Dương.
Thục tri bất hướng biên đình khổ,
Túng tử do văn hiệp cốt hương.
Dịch nghĩa
Vốn là quan chức trong đội ngự lâm bảo vệ nhà vua,
Lần đầu theo chủ tướng ra trận ở Ngư Dương.
Ai chả biết nơi biên địa rất gian khổ,
Nhưng dẫu có chết cũng còn tiếng thơm anh hùng.
Thiếu niên hành kỳ 3 少年行其三
一身能擘兩雕弧,
虜騎千重祇似無。
偏坐金鞍調白羽,
紛紛射殺五單于。
Thiếu niên hành kỳ 3
Nhất thân năng phách lưỡng điêu hồ,
Lỗ kỵ thiên trùng kỳ tự vô.
Thiên toạ kim yên điêu bạch vũ,
Phân phân xạ sát ngũ Thiền Vu.
Dịch nghĩa
Một mình có thể giương hai cây cung cứng,
Trước cả ngàn kỵ binh địch coi như chỗ không người.
Ngồi nghiêng trên yên ngựa bắn tên đuôi trắng thiện nghệ,
Đã bắn chết năm chúa Thiền Vu.
Thôi cửu đệ dục vãng Nam sơn mã thượng khẩu hào dữ biệt
城隅一分手,
幾日還相見。
山中有桂花,
莫待花如霰。
Thôi cửu đệ dục vãng Nam sơn mã thượng khẩu hào dữ biệt
Thành ngung nhất phân thủ,
Kỷ nhật hoàn tương kiến?
Sơn trung hữu quế hoa,
Mạc đãi hoa như tản.
Dịch nghĩa
Một lần chia tay nhau ở góc thành này,
Bao giờ chúng ta mới được gặp lại?
Trong núi này có hoa quế,
Đừng đợi đến khi hoa tàn.
Thôi Hưng Tông tả chân vịnh 崔興宗寫真詠
畫君少年時,
如今君已老。
今時新識人,
知君舊時好。
Thôi Hưng Tông tả chân vịnh
Hoạ quân thiếu niên thì,
Như kim quân dĩ lão.
Kim thì tân thức nhân,
Tri quân cựu thì hảo.
Dịch nghĩa
Đã vẽ cho em bức hình hồi em còn ít tuổi,
Nay em đã già rồi.
Những người đang quen biết em,
Hẳn là sẽ thích thú khi coi hình em thời xưa.
Thu dạ độc toạ 秋夜獨坐
獨坐悲雙鬢,
空堂欲二更。
雨中山果落,
燈下草蟲鳴。
白髮終難變,
黃金不可成。
欲知除老病,
唯有學無生。
Thu dạ độc toạ
Độc toạ bi song mấn,
Không đường dục nhị canh.
Vũ trung sơn quả lạc,
Đăng hạ thảo trùng minh.
Bạch phát chung nan biến,
Hoàng kim bất khả thành.
Dục tri trừ lão bệnh,
Duy hữu học vô sinh.
Dịch nghĩa
Ngồi một mình buồn tóc mai bạc
Nhà trống không, đã muốn canh hai
Trong cơn mưa trái rừng rơi rụng
Dưới ánh đèn tiếng côn trùng trong cỏ kêu
Tóc bạc rốt cuộc khó mà đổi
Hoàng kim không thể luyện ra được
Muốn biết cách trừ bệnh già lão
Chỉ có cách học “vô sinh” (không sinh ra)
Thu dạ khúc 秋夜曲 • Khúc hát đêm thu
桂魄初生秋露微,
輕羅已薄未更衣。
銀箏夜久殷勤弄,
心怯空房不忍歸。
Thu dạ khúc
Quế phách sơ sinh thu lộ vi,
Kinh la dĩ bạc vị canh y.
Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng,
Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy.
Dịch nghĩa
Vầng trăng mới mọc, sương thu thưa thớt
Lụa phai màu mà áo chưa thay.
Đêm khuya rồi mà tiếng đàn tranh như suối bạc vẫn róc rách khúa ân tình,
Lòng e sợ phòng không chẳng dám về.
Thù Quách cấp sự 酬郭給事 • Tặng Quách cấp sự
洞門高閣靄餘輝,
桃李陰陰柳絮飛。
禁裏疏鐘官舍晚,
省中啼鳥吏人稀。
晨搖玉佩趨金殿,
夕奉天書拜瑣闈。
強欲從君無那老,
將因臥病解朝衣。
Thù Quách cấp sự
Động môn cao các ai dư huy,
Đào lý âm âm liễu nhứ phi.
Cấm lý sơ chung quan xá vãn,
Tỉnh trung đề điểu lại nhân hy.
Thần dao ngọc bội xu kim điện,
Tịch phụng thiên thư bái toả vi.
Cưỡng dục tòng quân vô na lão,
Tướng nhân ngoạ bệnh giải triều y.
Dịch nghĩa
Cửa thâm sâu vào lầu cao ngất mù mịt được ơn sủng của vua
Đào lý um tùm, liễu nhứ bay cùng
Nghe tiếng chuông vừa ngân nga là biết vệ môn trời đã tối
Trong chỗ trung thư tỉnh tiếng chim kêu, không còn mấy người sai dịch
Buổi sáng đeo ngọc bội đến chầu ở kim điện
Tối lại thụ vua ban chiếu thư bái lĩnh ở cung môn
Muốn cố gắng theo sau ông khổ giờ đã già lão
Muốn bị bệnh đi nằm phải thay áo triều phục
Thù Trương thiếu phủ 酬張少府
晚年惟好靜,
萬事不關心。
自顧無長策,
空知返舊林。
松風吹解帶,
山月照彈琴。
君問窮通理,
漁歌入浦深。
Thù Trương thiếu phủ
Vãn niên duy hiếu tĩnh,
Vạn sự bất quan tâm.
Tự cố vô trường sách,
Không tri phản cựu lâm.
Tùng phong xuy giải đới,
Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
Quân vấn cùng thông lý,
Ngư ca nhập phố thâm.
Dịch nghĩa
Những năm về già tính thích yên lặng
Mọi sự không còn quan tâm đến
Tự xét lại mình không thấy có gì hay hơn
Không còn trí (tranh đua) về ở lại trong rừng cũ
Gió rừng tùng thổi tung bay giải đới
Trăng miền núi chiếu trên cây đàn
Bạn hỏi đến lý cùng lẽ triệt
Ấy là tiếng ca của ngư phủ vang vọng trên bãi cát
Thư sự 書事 • Ghi lại
輕陰閣小雨,
深院晝慵開。
坐看蒼苔色,
慾上人衣來。
Thư sự
Khinh âm các tiểu vũ,
Thâm viện trú dung khai.
Toạ khán thương đài sắc,
Dục thướng nhân y lai.
Dịch nghĩa
Mây nhẹ và mưa lâm râm quanh nhà,
Mỏi mệt mở cổng trong sân âm u.
Ngồi xem sắc rêu xanh,
Chờ người đến lấy áo quần.
Tích vũ Võng Xuyên trang tác 積雨輞川莊作
積雨空林煙火遲,
蒸藜炊黍餉東菑。
漠漠水田飛白鷺,
陰陰夏木囀黃鸝。
山中習靜觀朝槿,
松下清齋折露葵。
野老與人爭席罷,
海鷗何事更相疑?
Tích vũ Võng Xuyên trang tác
Tích vũ không lâm yên hoả trì,
Chung lê xuy thử hướng đông tri.
Mạc mạc thuỷ điền phi bạch lộ,
Âm âm hạ mộc chuyển hoàng ly.
Sơn trung tập tĩnh quan triêu cẩn,
Tùng hạ thanh trai chiết lộ quỳ.
Dã lão dữ nhân tranh tịch bãi,
Hải âu hà sự cánh tương nghi?
Dịch nghĩa
Mưa nhiều, trong rừng thưa khói lửa toả chậm
Nấu canh lê, thổi cơm nếp, đem đến ruộng mé đông
Trên ruộng nước bao la bầy cò trắng bay
Dưới đám cây âm u chim hoàng oanh hót líu lo
Trong núi tập tính u tĩnh, ngắm cây dâm bụt buổi sáng
Dưới cây tùng giữ chay tịnh, bẻ cành quỳ đọng sương
Lão nhà quê này đã thôi cùng người tranh dành chỗ ngồi
Chim hải âu làm sao mà lại nghi ngại nhau
Tòng quân hành 從軍行 • Bài hát tòng quân
吹角動行人,
喧喧行人起。
笳悲馬嘶亂,
爭渡金河水。
日暮沙漠垂,
戰聲煙塵裏。
盡係名王頸,
歸來報天子。
Tòng quân hành
Xuy giốc động hành nhân,
Huyên huyên hành nhân khởi.
Già bi mã tê loạn,
Tranh độ Kim Hà thuỷ.
Nhật mộ sa mạc thuỳ,
Chiến thanh yên trần lý.
Tận hệ danh vương cảnh,
Quy lai báo thiên tử.
Tống Bí thư Triều Giám hoàn Nhật Bản
積水不可極,
安知滄海東。
九州何處遠,
萬里若乘空。
向國唯看日,
歸帆但信風。
鰲身映天黑,
魚眼射波紅。
鄉樹扶桑外,
主人孤島中。
別離方異域,
音信若為通。
Tống Bí thư Triều Giám hoàn Nhật Bản
Tích thuỷ bất khả cực,
An tri thương hải đông.
Cửu châu hà xứ viễn,
Vạn lý nhược thừa không.
Hướng quốc duy khán nhật,
Quy phàm đãn tín phong.
Ngao thân ánh thiên hắc,
Ngư nhãn xạ ba hồng.
Hương thụ Phù Tang ngoại,
Chủ nhân cô đảo trung.
Biệt ly phương dị vực,
Âm tín nhược vi thông.
Dịch nghĩa
Biển khơi không có bờ mé,
Biết chắc rằng biển xanh ở phương đông.
Ông ở cách Cửu châu bao xa?
Cách muôn dặm đường chim bay.
Nhìn về quê quán chỉ thấy mặt trời,
Cánh buồm đưa trở về phải nhờ gió.
Thân thuyền như thân rùa lớn ánh lên màu đen trong nắng,
Mắt thuyền như mắt cá màu hồng trên sóng.
Được biết ông sống ngoài cây phù tang tượng trưng xứ sở,
Trong một hòn đảo lẻ loi.
Chia tay ông đi về nơi xa lạ đối với tôi,
Chẳng hay đường thư tín có thông suốt không!
Tống biệt (Há mã ẩm quân tửu) 送別(下馬飲君酒)
下馬飲君酒,
問君何斫之?
君言不得意,
歸臥南山陲。
但去莫復問,
白雲無盡時。
Tống biệt (Há mã ẩm quân tửu)
Há mã ẩm quân tửu,
Vấn quân hà sở chi?
Quân ngôn bất đắc ý:
Quy ngoạ Nam Sơn thuỳ.
Đãn khứ mạc phục vấn,
Bạch vân vô tận thì!
Dịch nghĩa
Xuống ngựa uống chén rượu tiễn bạn
Hỏi bạn đi về đâu
Bạn nói rằng không được vừa ý
Về nhà ở mé Chung Nam sơn ngủ quên đời
Thôi thì bạn cứ đi tôi chẳng hỏi nữa
Mây trắng bay mãi không bao giờ hết
Vương Duy được biết đến là một nhà thơ để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc. Những bài thơ mang đầy màu sắc mới mẻ thổi mát tâm hồn người đọc. Ông được xem là một cây cổ thụ của nền văn học Trung Quốc. Những thi phẩm của ông luôn được ca tụng và truyền bá rộng rãi.