Vương Duy được bạn đọc biết đến bởi những thi phẩm đầy đặc sắc cùng phong cách thơ mới mẻ. Những bài thơ mang ý nghĩa rộng lớn và thiên về đạo phật. Người ta thường khen ông là: “Trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ” (Thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi). Ðối với Phật giáo đương thời, Vương Duy có địa vị cao trong Nam phái thiền tông. Người đời sau gọi ông là Thi Phật. Mời các bạn cùng đón xem những bài thơ hấp dẫn của ông ngay bây giờ nhé!
Tống biệt (Sơn trung tương tống bãi) 送別(山中相送罷)
山中相送罷,
日暮掩柴扉。
春草明年綠,
王孫歸不歸。
Tống biệt (Sơn trung tương tống bãi)
Sơn trung tương tống bãi,
Nhật mộ yểm sài phi.
Xuân thảo minh niên lục,
Vương tôn quy bất quy?
Dịch nghĩa
Tiễn biệt xong ở ngoài mé núi
Trời chiều xuống, đóng cổng lại
Năm tới lúc cỏ mùa xuân xanh lại
Các vương tôn không biết có về lại đây không?
Tống biệt (Tống quân Nam Phố lệ như ty)
送君南浦淚如絲,
君向東州使我悲。
為報故人憔悴盡,
如今不似洛陽時。
Tống biệt (Tống quân Nam Phố lệ như ty)
Tống quân Nam Phố lệ như ty,
Quân hướng Đông Châu sử ngã bi.
Vị báo cố nhân tiều tuỵ tận,
Như kim bất tự Lạc Dương thì.
Tống Bình Đạm Nhiên phán quan 送平澹然判官
不識陽關路,
新從定遠侯。
黃雲斷春色,
畫角起邊愁。
瀚海經年到,
交河出塞流。
須令外國使,
知飲月氏頭。
Tống Bình Đạm Nhiên phán quan
Bất thức Dương Quan lộ,
Tân tòng Định Viễn hầu.
Hoàng vân đoạn xuân sắc,
Hoạ giốc khởi biên sầu.
Hãn hải kinh niên đáo,
Giao hà xuất tái lưu.
Tu linh ngoại quốc sứ,
Tri ẩm Nguyệt Chi đầu.
Tống Chu Đại nhập Tần 送朱大入秦 • Tiễn Chu Đại vào Tần
遊人五陵去,
寶劍值千金。
分手脫相贈,
平生一片心。
Tống Chu Đại nhập Tần
Du nhân Ngũ Lăng khứ,
Bảo kiếm trị thiên kim.
Phân thủ đoái tương tặng,
Bình sinh nhất phiến tâm.
Dịch nghĩa
Ông sắp qua vùng Ngũ Lăng,
Bảo kiếm trị giá cả ngàn vàng.
Lúc chia tay xin cởi tặng ông,
Gọi là chút lòng thành.
Tống Dương trưởng sử phó Quả Châu 送楊長史赴果州
褒斜不容幰,
之子去何之?
鳥道一千里,
猿聲十二時。
官桥祭酒客,
山木女郎祠。
別後同明月,
君應聽子規。
Tống Dương trưởng sử phó Quả Châu
Bao Tà bất dung hiển,
Chi tử khứ hà chi?
Điểu đạo nhất thiên lý,
Viên thanh thập nhị thì.
Quan kiều tế tửu khách,
Sơn mộc Nữ Lang từ.
Biệt hậu đồng minh nguyệt,
Quân ưng thính tử quy.
Dịch nghĩa
Vùng Bao Tà xe có màn che không đi được,
Vậy ông đi cách nào?
Đường chim bay dài ngàn dặm,
Vượn kêu suốt ngày đêm.
Quan coi cầu là một tế tửu,
Trong rừng núi có miếu thờ Nữ Lang.
Sau khi chia tay chỉ còn trăng sáng theo ông,
Có nhẽ ông sẽ nghe tiếng chim cuốc kêu.
Tống Hình Quế Châu 送邢桂州 • Tiễn ông Hình đi Quế Châu
鐃吹喧京口,
風波下洞庭。
赭圻將赤岸,
擊汰復揚舲。
日落江湖白,
潮來天地青。
明珠歸合浦,
應逐使臣星。
Tống Hình Quế Châu
Nao xuy huyên Kinh Khẩu,
Phong ba há Động Đình.
Giả Kỳ tương xích ngạn,
Kích thái phục dương linh.
Nhật lạc giang hồ bạch,
Triều lai thiên địa thanh.
Minh châu quy Hợp Phố,
Ưng trục sứ thần tinh.
Tống hữu nhân nam quy 送友人南歸
萬裏春應盡,
三江雁亦稀。
連天漢水廣,
孤客郢城歸。
鄖國稻苗秀,
楚人菇米肥。
懸知倚門望,
遙識老萊衣。
Tống hữu nhân nam quy
Vạn lý xuân ưng tận,
Tam giang nhạn diệc hy.
Liên thiên Hán thuỷ quảng,
Cô khách Dĩnh thành quy.
Vân quốc đạo miêu tú,
Sở nhân cô mễ phì.
Huyền tri ỷ môn vọng,
Dao thức Lão Lai y.
Tống Kỳ Vô Tiềm lạc đệ hoàn hương 送綦毋潛落第還鄉
聖代無隱者,
英靈盡來歸,
遂令東山客,
不得顧採薇。
既至金門遠,
孰雲吾道非?
江淮度寒食,
京洛縫春衣。
置酒長安道,
同心與我違;
行當浮桂棹,
未幾拂荊扉。
遠樹帶行客,
孤城當落暉。
吾謀適不用,
勿謂知音稀?
Tống Kỳ Vô Tiềm lạc đệ hoàn hương
Thánh đại vô ẩn giả,
Anh linh tận lai quy.
Toại linh Ðông Sơn khách,
Bất đắc cố thái vi.
Ký dĩ kim môn viễn,
Thục vân ngô đạo phi.
Giang Hoài độ hàn thực,
Kinh Lạc phùng xuân y.
Trí tửu Trường An đạo,
Ðồng tâm dữ ngã vi.
Hành đương phù quế trạo,
Vị kỷ phất kinh phi.
Viễn thụ đới hành khách,
Cô thành đương lạc huy.
Ngô mưu thích bất dụng,
Vật vị tri âm hy.
Dịch nghĩa
Ðời thịnh, không có người ở ẩn
Những người tài giỏi đều tụ tập về (chốn kinh đô)
Khiến cho người khách ở Ðông Sơn
Không thể chăm chú mà hái rau vi được
Ðã đi tới chốn cửa vàng xa xôi kia rồi
Mà ai còn nói đạo của ta không đúng
Lúc ở Giang Hoài đón tiết hàn thực
Nơi Kinh Lạc may áo mùa xuân
Bày tiệc rượu ở khu Trường An
Tôi và anh đã hiểu lòng nhau
Ðường về chèo quế bồng bềnh
Không lâu nữa anh sẽ đến cổng tre
Cây cối xa xăm che mát cho khánh đi đường
Nắng chiều đang chiếu xuống thành quách quạnh hiu
Tài trí mưu lược của anh chưa được dùng
Nhưng chớ cho là hiếm hoi kẻ tri âm
Tống Lý thái thú phó Thượng Lạc 送李太守赴上洛
商山包楚鄧,
積翠藹沉沉。
驛路飛泉洒,
關門落照深。
野花開古戍,
行客響空林。
板屋春多雨,
山城晝欲陰。
丹泉通虢略,
白羽抵荊岑。
若見西山爽,
應知黃綺心。
Tống Lý thái thú phó Thượng Lạc
Thương Sơn bao Sở Đặng,
Tích thuý ái trầm trầm.
Dịch lộ phi tuyền sái,
Quan môn lạc chiếu thâm.
Dã hoa khai cổ thú,
Hành khách hưởng không lâm.
Bản ốc xuân đa vũ,
Sơn thành trú dục âm.
Đan Tuyền thông Quắc Lược,
Bạch vũ để Kinh Sầm.
Nhược kiến tây sơn sảng,
Ưng tri Hoàng, Ỷ tâm.
Tống Mạnh Lục quy Tương Dương 送孟陸歸襄陽
杜門不復出,
久與世情疏。
以此為長策,
勸君歸舊廬。
醉飲田舍酒,
笑讀古人書。
好是一生事,
無勞獻子虛。
Tống Mạnh Lục quy Tương Dương
Đỗ môn bất phục xuất,
Cửu dữ thế tình sơ.
Dĩ thử vi trường sách,
Khuyến quân quy cựu lư.
Tuý ẩm điền xá tửu,
Tiếu độc cổ nhân thư.
Hảo thị nhất sinh sự,
Vô lao hiến Tử Hư.
Dịch nghĩa
Đóng cửa không ra ngoài nữa
Từ lâu, không thiết tha với đời
Cho đó là sách lược hay
Khuyên bác về với căn nhà cũ
Say khướt với vò rượu quê
Vui cười đọc sách người xưa
Việc đời thế là êm đẹp
Đừng làm phú Tử Hư làm gì cho mệt thân.
Tống phương tôn sư quy Tung sơn 送方尊師歸嵩山
仙官欲住九龍潭,
旄節朱旛倚石龕。
山壓天中半天上,
洞穿江底出江南。
瀑布松杉常帶雨,
夕陽彩翠忽成嵐。
借問迎來雙白鶴,
已曾衡岳送蘇耽。
Tống phương tôn sư quy Tung sơn
Tiên quan dục trú Cửu Long đàm,
Mao tiết chu phan ỷ thạch kham.
Sơn áp thiên trung bán thiên thượng,
Động xuyên giang để xuất giang nam.
Bộc bố tùng sam thường đái vũ,
Tịch dương thải thuý hốt thành lam.
Tá vấn nghênh lai song bạch hạc,
Dĩ tằng Hành Nhạc tống Tô Đam.
Dịch nghĩa
Vị chức sắc trong tiên giới muốn trú ngụ bên đầm Cửu Long,
Cờ tiết, cành phan đỏ dựa vách tháp đá.
Núi cao vượt mây, một nửa như lơ lửng trên trời,
Nước đầm còn sâu hơn nước con sông chảy vào đầm từ phía nam.
Nước tung bay từ ngọn tháp làm thông và sam như thường xuyên hứng mưa,
Ráng chiều rực rỡ mau chóng thành khí núi.
Xin hỏi đôi hạc trắng vừa bay tới và được nghênh đón,
Phải chăng đã từng đưa tiễn Tô Đam về núi Hành Nhạc?
Tống Trầm Tử Phúc chi Giang Đông 送沈子福之江東
楊柳渡頭行客稀,
罟師盪槳向臨圻。
唯有相思似春色,
江南江北送君歸。
Tống Trầm Tử Phúc chi Giang Đông
Dương liễu độ đầu hành khách hy,
Cổ sư đãng tưởng (tương) hướng Lâm Kỳ.
Duy hữu tương tư tự xuân sắc,
Giang nam, giang bắc tống quân quy.
Dịch nghĩa
Hành khách nơi bến sông có dương liễu thưa thớt,
Phu thuyền đã chèo thuyền xuôi về hướng Lâm Kỳ.
Cảnh sông xuân như cũng nhớ ông,
Hai bờ nam bắc âm thầm tiễn ông đi.
Tống Tử Châu Lý sứ quân 送梓州李使君
萬壑樹參天,
千山響杜鵑。
山中一夜雨,
樹杪百重泉。
漢女輸橦布,
巴人訟芋田。
文翁翻教授,
不敢倚先賢。
Tống Tử Châu Lý sứ quân
Vạn hác thụ tham thiên,
Thiên sơn hưởng đỗ quyên.
Sơn trung nhất dạ vũ,
Thụ sao bách tròng tuyền.
Hán nữ du đồng bố,
Ba nhân tụng vu điền.
Văn Ông phiên giáo thụ,
Bất cảm ỷ tiên hiền.
Dịch nghĩa
Bên cạnh muôn khe nước, cây cao mọc ngất trời
Tiếng đỗ quyên vang trong ngàn non
Sau một đêm mưa ở trong núi
Trăm tầng suối đổ trên ngọn cây
Những người con gái Hán chở vải thô
Những người quận Ba kiện tụng vì ruộng khoai
(Xưa kia) Văn Ông dạy dân ở đây
(Giờ đây) đâu dám ỷ vào tiên hiền
Tống Vi bình sự 送韋評事
欲逐將軍取右賢,
沙場走馬向居延。
遙知漢使蕭關外,
愁見孤城落日邊。
Tống Vi bình sự
Dục trục tướng quân thủ Hữu Hiền,
Sa trường tẩu mã hướng Cư Diên.
Dao tri Hán sứ Tiêu quan ngoại,
Sầu kiến cô thành lạc nhật biên.
Dịch nghĩa
Muốn theo tướng quân đi bắt Hữu Hiền,
Nơi chiến trường cưỡi ngựa hướng về hồ Cư Diên.
Mới hay sứ nhà Hán đã tới ngoài cửa Tiêu,
Buồn bã nhìn ải chơ vơ dưới nắng chiều.
Túc Trịnh Châu 宿鄭州 • Nghỉ đêm ở Trịnh Châu
朝與周人辭,
暮投鄭人宿。
他鄉絕儔侶,
孤客親僮僕。
宛洛望不見,
秋霖晦平陸。
田父草際歸,
村童雨中牧。
主人東皋上,
時稼繞茅屋。
蟲思機杼鳴,
雀喧禾黍熟。
明當渡京水,
昨晚猶金谷。
此去欲何言,
窮邊徇微祿。
Túc Trịnh Châu
Triêu dữ Chu nhân từ,
Mộ đầu Trịnh nhân túc.
Tha hương tuyệt trù lữ,
Cô khách thân đồng bộc.
Uyển Lạc vọng bất kiến,
Thu lâm hối bình lục.
Điền phụ thảo tế quy,
Thôn đồng vũ trung mục.
Chủ nhân đông cao thướng,
Thời giá nhiễu mao ốc.
Trùng tư cơ trữ minh,
Tước huyên hoà thử thục.
Minh đương độ Kinh thuỷ,
Tạc vãn do Kim cốc.
Thử khứ dục hà ngôn,
Cùng biên tuân vi lộc!
Dịch nghĩa
Buổi sáng từ biệt đất Chu,
Chiều tối tới nhà người quen ở đất Trịnh nghỉ qua đêm.
Nơi xứ người không còn bạn bè và người thân,
Lữ khách cô đơn, thằng nhỏ sai vặt và người giúp việc là người thân.
Nhìn về Uyển, Lạc không còn thấy gì nữa,
Mưa thu dầm dề làm u ám đất bằng.
Ông già làm ruộng trở về từ đồng cỏ,
Trẻ mục đồng coi trâu bò trong mưa.
Chủ nhà từ bờ đông hồ trở về,
Lúa mùa trồng khắp quanh nhà cỏ.
Tiếng dế nghe như nhung nhớ trong khung cửi,
Chim sẻ ríu rít trong lúa chín.
Ngày mai sẽ đi đò trên sông Kinh,
Tối hôm qua còn ở hang Kim.
Biết nói sao về chuyến đi này,
Đi tới nơi xa cùng cực để lãnh bổng lộc có chút xíu!
Tư Thánh tự tống Cam Nhị 資聖寺送甘二
浮生信如寄,
薄宦夫何有。
來往本無歸,
別離方此受。
柳色藹春余,
槐陰清夏首。
不覺御溝上,
銜悲執杯酒。
Tư Thánh tự tống Cam Nhị
Phù sinh tín như ký,
Bạc hoạn phu hà hữu.
Lai vãng bản vô quy,
Biệt ly phương thử thụ.
Liễu sắc ái xuân dư,
Hoè âm thanh hạ thủ.
Bất giác ngự câu thượng,
Hàm bi chấp bôi tửu.
Tức phu nhân 息夫人 • Tức phu nhân
莫以今時寵,
能忘舊日恩。
看花滿眼淚,
不共楚王言。
Tức phu nhân
Mạc dĩ kim thời sủng,
Năng vong cựu nhật ân.
Khán hoa mãn nhãn lệ,
Bất cộng Sở vương ngôn.
Dịch nghĩa
Đâu phải vì sự sủng ái bây giờ
Mà có thể quên được ân tình ngày xưa.
Ngắm hoa mà lệ chứa chan đôi mắt,
Không nói một lời nào với vua nước Sở.
Vi cấp sự sơn cư 韋給事山居 • Nhà núi của quan cấp sự họ Vi
幽尋得此地,
詎有一人曾。
大壑隨階轉,
群山入戶登。
庖廚出深竹,
印綬隔垂藤。
即事辭軒冕,
誰雲病未能。
Vi cấp sự sơn cư
U tầm đắc thử địa,
Cự hữu nhất nhân tằng.
Đại hác tuỳ giai chuyển,
Quần sơn nhập hộ đăng.
Bao trù xuất thâm trúc,
Ấn thụ cách thuỳ đằng.
Tức sự từ hiên miện,
Thuỳ vân bệnh vị năng.
Dịch nghĩa
Tìm được nơi u tịch thế này
Mấy ai từng làm được như thế
Khe lớn từng bậc từng bậc đổ xuống
Cả rặng núi như muốn nhảy vào cổng
Từ đám trúc rậm, bếp và trạn hiện ra
Ngù ấn cách biệt với đám mây song rủ xuống
Giá có cáo quan từ chức ngay
Cũng không ai bảo rằng chuyện ấy e không làm được
Vị Thành khúc – Tống Nguyên nhị sứ An Tây
渭城朝雨浥輕塵,
客舍青青柳色新。
勸君更盡一杯酒,
西出陽關無故人。
Vị Thành khúc – Tống Nguyên nhị sứ An Tây
Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
Dịch nghĩa
Tại Vị Thành, mưa ban sáng làm ướt đám bụi mỏng
Quán khách có liễu màu sắc mới mẻ xanh tươi
Xin anh hãy uống cạn chén rượu
Ra khỏi Dương Quan về phía tây e không còn có bạn nữa
Vị Xuyên điền gia 渭川田家 • Cảnh nhà nông ở Vị Xuyên
斜光照墟落,
窮巷牛羊歸。
野老念牧童,
倚杖候荊扉。
雉雊麥苗秀,
蠶眠桑葉稀。
田夫荷鋤立,
相見語依依。
即此羨閒逸,
悵然吟式微。
Vị Xuyên điền gia
Tà quang chiếu khư lạc,
Cùng hạng ngưu dương quy.
Dã lão niệm mục đồng,
Ỷ trượng hậu kinh phi.
Trĩ cấu mạch miêu tú,
Tàm miên tang diệp hi.
Ðiền phu hà sừ chí,
Tương kiến ngữ y y.
Tức thử tiện nhàn dật,
Trướng nhiên ngâm “Thức vi”.
Dịch nghĩa
Ánh nắng chiều chiếu xuống xóm làng,
Trong hẻm sâu trâu dê đang trở về.
Ông lão nhà quê trông chờ trẻ chăn trâu,
Chống gậy đứng nơi cổng tre.
Chim trĩ kêu, lúa mạch tốt tươi,
Tằm đã ngủ, lá dâu còn lại lưa thưa.
Người nông dân vác cuốc tới,
Gặp nhau chuyện vãn như thường ngày.
Ðó chính là ưa chuộng đời sống an nhàn,
Thanh thản mà hát bài ca Thức vi.
Võng Xuyên biệt nghiệp 輞川別業 • Nhà riêng ở Võng Xuyên
不到東山向一年,
歸來才及种春田。
雨中草色綠堪染,
水上桃花紅欲然。
優婁比丘經綸學,
傴僂丈人鄉里賢。
披衣倒屣且相見,
相歡語笑衡門前。
Võng Xuyên biệt nghiệp
Bất đáo Đông sơn hướng nhất niên,
Quy lai tài cập chủng xuân điền.
Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm,
Thuỷ thượng đào hoa hồng dục nhiên.
Ưu lậu tỳ khưu kinh luân học,
Ủ lũ trượng nhân hương lý hiền.
Phi y đảo tỷ thả tương kiến,
Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền.
Võng Xuyên nhàn cư 輞川閑居
一從歸白社,
不復到青門。
時倚簷前樹,
遠看原上村。
青菰臨水映,
白鳥向山翻。
寂寞於陵子,
桔槔方灌園。
Võng Xuyên nhàn cư
Nhất tòng quy Bạch Xã,
Bất phục đáo Thanh Môn.
Thời ỷ thiềm tiền thụ,
Viễn khan nguyên thượng thôn.
Thanh cô lâm thuỷ ánh,
Bạch điểu hướng sơn phiên.
Tịch mịch Ư Lăng tử,
Kết cao phương quán viên.
Dịch nghĩa
Từ khi quay trở về Bạch Xã
Chưa trở lại chỗ Thanh Môn
Có lúc dựa vào gốc cây trước mái nhà
Nhìn xa xa thôn xóm ở trên mé đồi
Cỏ cô nhìn xuống nước ánh chiếu
Chim trắng vọng mé núi lượn
Người Ư Lăng vốn tịch mịch
Lấy nước giếng tưới vườn
Võng Xuyên nhàn cư tặng Bùi tú tài Địch
寒山轉蒼翠,
秋水日潺湲。
倚杖柴門外,
臨風聽暮蟬。
渡頭餘落日,
墟里上孤煙。
復值接輿醉,
狂歌五柳前。
Võng Xuyên nhàn cư tặng Bùi tú tài Địch
Hàn sơn chuyển thương thuý,
Thu thuỷ nhật sàn viên.
Ỷ trượng sài môn ngoại,
Lâm phong thính mộ thiền.
Độ đầu dư lạc nhật,
Khư lý thượng cô yên.
Phục trị Tiếp Dư tuý,
Cuồng ca Ngũ Liễu tiền.
Dịch nghĩa
Núi lạnh đổi thành màu xanh biếc
Nước mùa thu càng ngày càng chảy xiết
Chống gậy đứng ngoài cổng cây
Hóng gió nghe tiếng ve kêu buổi chiều
Đầu bến sông mặt trời còn sót lại
Trong thôn thấy ngọn khói lẻ bay lên
Đương lúc gặp Sở cuồng Tiếp Dư say
Hát ngông trước mặt Ngũ Liễu tiên sinh
Xuân dạ Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ quy Lam Điền
夜靜群動息,
時聞隔林犬。
卻憶山中時,
人家澗西遠。
羨君明發去,
采蕨輕軒冕。
Xuân dạ Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ quy Lam Điền
Dạ tĩnh quần động tức
Thời văn cách lâm khuyển
Tức ức sơn trung thời
Nhân gia giản tây viễn
Tiện quân minh phát khứ
Thái quyết khinh hiên miện.
Dịch nghĩa
Đêm yên lặng, muôn vật ở trạng thái nghỉ
Nghe tiếng chó sủa cách phía rừng
Chợt nhớ rằng mình đang ở trong núi
Nhà ai bên bờ suối phía tây xa
Sớm mai bạn lên đường
Ta hái rau quyết, khinh thường xe hiên mũ miện
Xuân trung điền viên tác 春中田園作 • Giữa xuân ở ruộng vườn
屋上春鳩鳴,
村邊杏花白。
持斧伐遠揚,
荷鋤覘泉脈。
歸燕識故巢,
舊人看新歷。
臨觴忽不御,
惆悵遠行客。
Xuân trung điền viên tác
Ốc thượng xuân cưu minh,
Thôn biên hạnh hoa bạch.
Trì phủ phạt viễn dương,
Hà sừ chiêm tuyền mạch.
Quy yến thức cố sào,
Cựu nhân khán tân lịch.
Lâm thương hốt bất ngự,
Trù trướng viễn hành khách.
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng quý động giả một chùm thơ ấn tượng của nhà thơ lừng danh Vương Duy. Ở ông có một lối thơ độc đáo và đầy sáng tạo. Qua những thi phẩm chúng ta đã phần nào cảm phục trước sự tài năng thiên phú văn võ song toàn của Vương Duy. Hãy đồng hành cùng chúng tôi để theo dõi những bài viết đặc sắc hơn nữa nhé!