Trong làng thơ ca Việt Nam, Tú Mỡ là một gương mặt nổi bật với lối thơ đầy ấn tượng và độc đáo. Chặng đường sự nghiệp của ông được khẳng định nhờ những trang thơ giá trị châm biếm sâu sắc. Bên cạnh đó là những bài thơ ông viết lúc cuối đời, thơ khóc người vợ hiền và thơ tặng cháu. Qua đó chúng ta thấy một Tú Mỡ khác, chân thật, hiền lành. Đừng bỏ lỡ nhé!
Tú Mỡ với Quan Ôn
Xuân đã sang hè, trời nắng rát
Trong xóm, thấy mấy ông “Kỳ nát”
Lục tục kéo nhau đi quyên tiền
Để mà sắm sửa lễ Kỳ yên
Đút lót Quan Ôn khỏi tác ác
Người răm ba hào, kẻ đồng bạc
Các ông thu được món tiền to
Đi mua đồ giả đốt ra tro
Nào là vàng mã, nào mũ mãng
Nào là voi ngựa, nào lính tráng
Nào cờ, nào biển, nào thuyền rồng
Văn minh thêm khẩu súng thần công!
Voi ngựa rỗng lòng, thuyền thủng đáy
Thần công tắc tị, bánh không chạy
Các ông man trá cả quỷ thần
Phúc chả thấy đâu, tội vào thân!
Còn về phần riêng tôi, Tú Mỡ
Đừng hòng quyên tiền tôi mà nhỡ!
Tính tôi thẳng tuột, lòng tôi ngay
Chẳng lừa hại ai, chẳng quắt quay
Trần đời ghét nhất thói ăn lễ
Quan Âm, quan Dương thời cũng thế!
Tôi tôn thần thánh, kính Phật Trời
Nhưng chẳng sợ ai, chẳng lễ ai
Ăn uống chơi bời, tôi điều độ
Năng tập thể thao, giạn nắng gió
Quan Ôn dù có muốn lôi thôi
Thời cũng khó lòng bắt nổi tôi…
Tủi cho bà Tú Mỡ
(Báo Phụ Nữ Thời Đàm mới tái thế đã có bài tán tụng những đức tính của bà thượng Phạm Quỳnh, khen nức, khen nở, khen thở chẳng được. Tú Mỡ nghĩ đến cái “nái sề” đức tính chẳng kém gì ai, mà chẳng thấy ai khen nên có bài thơ cảm.)
Vừa rồi báo Phụ Nữ
Khen bà Lớn kia dữ!
Nức nở đức Bà hiền
Hiền hơn bà Khổng Tử…
Khen bà khéo đẻ con
Mát mẻ đẻ con khôn
Cô cậu như tranh, đối
Như tiên chốn núi Non…
Khen bà giỏi nội trợ
Bến nước chăm non khá!
Cơm dẻo lại canh ngon,
Một tay săn sóc cả.
Khen bà tính nhu mì
Nhũn tựa con chi chi
Bà ký… lên… bà Thượng
Chẳng kiêu mà chẳng kỳ
Chị em khen nức nở
Một tấm gương rờ rỡ…
Tôi nghĩ đến nhà tôi,
Tủi cho bà Tú Mỡ.
Cũng khéo đẻ xon xon
Ba vuông lại bảy tròn
Cũng chăm việc bếp nước
Cơm dẻo mà canh ngon.
Tính nết cũng nhu mì
Nhũn rừ há kém chi…!
Mợ Hàn kiêm mợ Tú
Chẳng bắc bậc kiêu kỳ
Nào thấy ai đăng báo
Treo gương làm quảng cáo?
Hoạ chăng chỉ có tôi
Rủ rỉ khen láo quáo…
À…! Lỗi tại thằng tôi,
Chỉ quen thơ thẩn thôi
Chẳng làm nên cụ Lớn,
Nên thế vậy, than ôi…!
Tự thuật
Ở sở “Phi-Năng” có một thầy
Người cao dong dỏng lại gầy gầy
Mặc thường soàng sĩnh, ưa lành sạch
Ăn chỉ thều thào, thích tịnh chay
Tom chát quanh năm vài bốn bận
Say sưa mỗi tháng một đôi ngày
Tính vui trò chuyện cười như phá
Lòng thẳng căm hờn nói toạc ngay
Siên sỏ vào tay hơi khá khá
Ở ăn thì nết cũng hay hay!
Yêu người chân thật, người hào hiệp
Ghét kẻ chui luồn, kẻ quắt quay
Võ vẽ hay làm văn quốc ngữ
Sì sồ ít nói tiếng Âu Tây
Bạn mà bàn đến thi cùng cử
Thời vội van luôn: Tớ lạy mày!…
Bởi tính ngang phè như chánh bứa
Già đời chẳng được cái mề đay
Văn tế bảo hộ
A ha! Bảo hộ! Bỗng nhiên trời hại!
Suy thịnh lẽ thưởng, nào ai ái ngại?
Đọc bài điếu này, dạ ta thiết tha,
Ngươi có khôn thiêng chớ oán giận ta.
Nhớ ngươi thuở trước, xâm chiếm Đông Dương,
Mưu tinh chước quỷ, nham hiểm khôn lường.
Trước thả cố đạo, sau dắt con buôn,
Rốt đến binh lính, trăm khéo nghìn khôn.
Bá Đa mở lối, Đồ Phổ theo đường;
Gia Long mắc bợm, Tự Đức phải nhường.
Sự sinh sình sự, muốn yên chẳng yên,
Được chân lấn cổ, có voi đòi tiên;
Chiến tranh lẵng nhẵng, hiệp ước lung tung
Rốt cuộc công lý, phải thua bạo hung.
Nhớ ngươi đô hộ, đủ khoé gian ngoan,
Giả vờ nhân nghĩa, che đậy tham tàn.
Miệng rằng: khai hoá, sách viết: văn minh;
“Khai” mòn sản vật, “hoá” tận dân tình.
Nhớ người cai trị, thật tối dã man:
Trong là địa ngục, ngoài bảo thiên đàng;
Núi sông khai thác, ruộng đất mở mang,
Chẳng qua tư lợi, há vì dân gian;
Học hành giỏ giọt, trường có công khai,
Chỉ đủ đào tạo một số tay sai.
Nhớ người thâm thiểm: dĩ man, trị man
Nuôi đàn ưng khuyển, dung bọn ô quan,
Cho dễ bóp nặn đám dân hiền lành,
Cho dễ đàn áp bọn sĩ tinh anh.
Nhớ ngươi vơ vét, đã hả dã tâm,
Xấu xa đậy điệm, độc địa ngấm ngầm
Nay đến cực điểm, trăm họ lầm than:
Binh lửa thảm khốc, sinh linh điêu tàn;
Sưu cao thuế nặng, lột da róc xương,
Thóc gạo tích trữ, đói chết đầy đường.
Ngươi tưởng cùng ta, nợ báo còn dài,
Nhưng nhìn dĩ vãng, hòng gì tương lai!
Trời nào chứng mãi cho người rông càn:
Hại nhân nhân hại, thiên địa tuần hoàn.
Nước ngươi đổ nát, nhà ngươi tan tành;
Vận ngươi đã mạt, số ngươi đã đành.
Giữ mình chẳng nổi, còn bảo hộ ai?
Nay ngươi bị diệt, âu cũng lòng Trời.
Tám mươi năm lẻ, đã biết nhau rồi!
Tiếc than chi nữa, đời thế là thôi.
Tây phương cực… nhục, hồn ngươi đi về.
Nước ta giải phóng, dạ ta hả hê.
Ba hồn bảy vía, ngươi chóng siêu sinh.
Biến về nước mẹ, cùng ta dứt tình.
Ngươi có khôn thiêng, hiểu thấu lòng ta.
Chớ còn lẩn quất, Nam quốc sơn hà.
A ha! Sướng thay!
Thượng hưởng!
Vợ chồng đời nay
Bây giờ thời buổi văn minh
Phu phụ chi tình có vẻ khác xưa
Mợ tham, mợ đốc nhởn nhơ
Lấy chồng ngồi ruỗi, ăn nhờ chiếc lương
Suốt ngày son phấn điểm trang
Tiêu khiển đêm trường: nhà hát, tổ tôm
Con thời sẵn vú nuôi ôm
Nước, cơm sẵn bếp tận mồm bưng lên
Phong lưu, chồng vợ là tiên
Hễ cậu kém tiền, giở luật cởi duyê
Xoay hòn đất
Có một anh,
Biếng lười như hủi,
Cờ bạc như tinh.
Rượu chè như quỉ,
Trai gái như ranh.
Mà cứ muốn,
Làm giàu làm có,
Nên giá nên danh.
Sinh con gái tốt,
Đẻ con trai lành.
Nghĩ đến câu,
Tất tươi tất tả,
Lật đà lật đật.
Thầy địa cố tìm,
Mồ cha lo cất,
Có người bà con,
Mách cho thầy khách.
Ăn nói đắn đo,
Nước cơm hạch sách.
Thôi thì,
Rượu nồng dê béo,
Của ngon vật lành.
Món xào đồ nấu,
Cháo lòng tiết canh.
Cung lão địa lý,
Quá ông thân sinh.
Ăn no lòi kèn,
Uống say nứt ruột.
Thầy tỏ lời khen:
“Anh nầy bụng tốt”
Cảm tấm lòng thành,
Cho ngôi đất sộp.
Nào hổ, nào rồng
Về sau kết phát,
Hẳn quá ước mong.
Giàu to danh lớn,
Con đàn cháu đông.
Lo xoay ngôi mộ,
Trả xong công thầy.
Chứa chan hi vọng,
Mong mỏi đêm ngày.
Cho hòn đất phát,
Đợi thời vận hay.
Thế mà,
Đông đi xuân lại,
Tháng trọn ngày qua.
Vẫn trần như nhộng,
Vẫn xác như vờ.
Cô độc cô quả,
Cầu bất cầu bơ…
Người đời, ngu dại,
Nghĩ mà ngùi thương.
Toàn vẹn thân xác,
Hòng nhờ nắm xương.
Đào lên chôn xuống,
Đặt dọc xoay ngang.
Để cầu phú quý,
Khéo chuyện hoang đường.
Bút sắt cưới bút lông
Le mariage de la plume et du pinceau”
Đầu đề bài diễn thuyết của văn sĩ Nguyễn Tiến Lãng diễn tại trường cao đẳng ngày 24-4-1936
Anh sắt mà cưới chị Lông
Mối manh ai mách? Tơ hồng nào se?
Khi xưa mới cưới nhau về
Chồng yêu vồn vã, vợ e sượng sùng
Đông Tây buổi mới lạ lùng
Bởi chưng ngôn ngữ bất đồng chán nhau
Sì sồ anh nói làu làu
Ngẩn ngơ chị cứ lắc đầu rằng “không”…!
Dần dà ăn đụng ở chung
Năm mươi năm lẻ, Sắt Lông miệt mài
Bây giờ bén tiếng quen hơi
Phụng loan như đã sánh đôi đề huề
Tới tuần mãn nguyệt khai huê
Đẻ ra cu cậu Tắc kẻ cọc đuôi
Các quan được tăng lương
Các ngài quan bé với quan to
Cứ tương lương sù, bổng lộc to
Ai có ngờ đâu quan cũng túng
Như nhiều công chức sống quanh co
Các ngài nhăn nhó phát đơn kêu:
Lương chẳng vừa ăn chẳng đủ tiêu
Bóp bụng không sao cung cấp nổi
Quan bà cậu ấm với cô chiêu
Tiền đâu mà chạy chữa xe hơi
Mà trữ sâm banh với rượu mùi
Để thết ông to và cụ lớn
Khi ngày quá bộ đến dinh chơi?
Tiền đâu bà lớn sắm tư trang
Hoa, nhẫn kim cương, với hạt vàng
Gấm vóc, lụa là, đồ phục sức
Làm tôn mình ngọc của bà quan?
Tiền đâu tậu ruộng lại mua nhà
Làm của tây riêng dưỡng tuổi già
Và để ngày sau con cái hưởng
Gia tài kết sụ, khỏi lo xa?
Cảnh túng nhà quan nghĩ đáng thương
Cho nên nhà nước đã tăng lương
Các quan hỉ hả mừng rơn nhé!
Sung sướng! Tha hồ sống đế vương!
Quan được tăng lương, dân cũng tăng…
Tăng sưu, tăng thuế, đến nhăn răng!
Còn manh khố rách, càng thêm rách
Đời sống lầm than ai thấu chăng?
Quan đã lương cao, bổng hậu rồi
Hãy thương dân với các ngài ôi!
Từ nay của đút đừng moi nữa
Dân chỉ xin ngài có thế thôi
Thiên tai
Dân Bắc năm nay khốn đốn hoài!
Bao lần thuỷ hoạ với thiên tai
Ba chìm bẩy nổi, vừa xong lụt
Đến nạn khô khan nắng cháy trời
Trái tiết trời thu mà nắng hạ
Suốt ngày ba tháng thiêu ròng rã
Ruộng, vườn nứt nẻ, hồ ao khô
Héo hắt mùa màng đi đứt cả
Sống về thế kỷ thứ hai mươi
Khoa học làm xoay chuyển cuộc đời
Ngán nỗi dân đen cầy đất Việt
Ăn thua vẫn phó mặc cơ trời
Đê mà tức nước thời đê vỡ
Dù các kỹ sư Sở lục lộ
Tram khéo nghìn khôn cũng bó tay
“Quy hàng trước sức thần mưa, gió…”
Ông Sứ đương thời ở Bắc Ninh
Tỏ ra thâm hiẻu thấu dân tình
Trời làm hạn hán, ông bèn sức
Cho khắp dân quê… mở cửa đình…
Sửa lễ vi thiềng, trâu, rượu, đủ…
Khua chiêng, gõ trống để cầu vũ
(Chịu quan Đại Pháp nước văn minh
Cũng biết duy trì phong tục cũ!)
Ngọc Hoàng nỡ tệ xử ngang tàng
Chẳng nể chiều lòng các quý quan
Pháp-Việt đề huề cầu cúng thế
Mà sao trời vẫn nắng chang chang?
Hay bởi lòng thành, nhưng lễ bạc
Tam sinh không có, rượu ti nhạt
Cho nên lá sớ dân cầu mưa
Chưa đến tay Trời đã bị bác?
Đóng thuế thân
Biết cơ đầu tháng tiền chưa cạn
Toà thuế Hà Thành rất mẫn cán
Giục giã các thầy đóng thuế thân
Khiến mình trong dạ đâm ngao ngán!
Ơn nhờ cái miệng mấy “ông dân”
Sưu tớ năm nay gấp bộn phần:
Hai chục bảy đồng, đau quá hoạn!
Cắn răng nộp vậy, dám lần khân
Lấy bát họ con vừa giốc ống
Gạt thầm giọt lệ đem đi cống…
Làm tròn bổn phận một thằng dân
Có những đoàn trùm vô sở vọng
Ngẫm nghĩ, song le cũng tự hào
Dân mình há chịu kém ai sao!
Tự do bình đẳng tuy thua thiệt
Nhưng đã bằng người cái… thuế cao!
Dân ngu phú
Nghĩ đến thôn dân
Ngán thay hủ tục!
Ròi tự trong xương
Rột từ trên nóc
Việc làng nát tựa tương dầm
Trí dân tối như hũ bọc
Dưới, đàn em một lũ ngu đần
Trên, kẻ cả những phường ô trọc
Quốc hồn, quốc túy, khư khư giữ mớ lễ nghi quèn
Thói tục, thường lề, nhất nhất theo pho hương mốc
Ðường sinh sống, chẳng lo bề chỉnh đốn, quả kiếp chân bùn tay lấm, vất vả lầm than
Cách ở ăn, không biết phép vệ sinh, tấm thân lưng đen khố cao, lôi thôi nhem nhuốc
Cơm khoai, gạo hẩm, bữa thường ăn khổ, ăn kham
Vách đất, nhà tranh, kiếp tội ở chui, ở rúc
Cám cảnh anh nhiêu, chị xã, luộm thuộm đầu bù tóc rối, đâm rụi đâm xo
Thương tình cái đĩ, thằng cu, trần truồng bụng ỏng đít meo, bò nheo bò nhóc
Áo ôm khố rách, kẻ nghèo nàn cực khổ điêu linh
Chín đụn mười trâu, người giầu có căn cơ ngu ngốc
Nằm trên đống của, bo bo chẵng biết lối tiêu sài
Chôn chặt cóng tiền, thấp thỏm chỉ lo quân cướp bóc
Duy chỉ biết giỗ lớn ma to, để trang trải nợ mồm quanh xóm mạc, nhắm no uống say
Hoặc chỉ lo ngôi cao bậc cả, để vểnh vang bộ mặt chốn đình trung, ăn trên ngồi trốc
Miếng giữa làng bằng sàng só bếp, ghen hơi tức khí, chỉ vì phần đĩa thịt nắm xôi
Tiền vào quan như than vào lò, bại sản khuynh gia, thường bởi miếng phao câu bù dục
Cải lương hương tục, tưởng chừng to tát như trời
Cách thức thi hành, rút cục chẳng ra cái cóc!
Bọn hương chức học hành dốt nát, tài cán cóc khô
Lũ kỳ hào lý sự ngang phè, khôn ngoan rùa mộc
Ðộng hội họp là ngả mâm đánh chén, dĩ thực vi tiên!
Hơi chi tiêu là nhờ gió bẻ măng, lợi mình làm gốc!
Học hành, công nghệ, việc ích chung ai là kẻ lo toan?
Ðình đám, hội hè, sự tai hại sao lắm người lăn lóc!
Ngán vậy thay!
Vì dân ươn hèn?
Chẳng qua kém học!
Báo chẳng buồn xem
Sách không chịu đọc
Ðiều văn minh gác bỏ ngoài tai
Thói hư hại ăn sâu trong óc
Chốn bùn lầy nước đọng, làm cho dân mở trí tinh khôn
Người bổng hậu quyền cao, nào ai kẻ cầm cương giáo dục
Mừng ông Hàn La và ông Cửu Bổng
Xin mừng ông Bổng với ông La
Làm vẻ vang làng báo nát ta!
Tuy chẳng phỡn phè no lộc nước
Cũng là thấm thía chút ơn vua
Hàn La giải chiếu thành La bổng
Cửu Bổng tùng văn hoá Bổng la!
Ăn cánh cân đai cùng bố tử
Đủ vây giấy sắc lại bài ngà
Công lênh chắc hẳn to, to lắm
Danh giá thơm lừng khắp, khắp xa!
Chú nó tay trong luồn lọt khá
Anh mày mặt rạng nở hẳn ra
Đi đâu cũng thấy người ta nói:
Một kẻ làm quan, cả họ nhờ!
Ông Táo xin miễn chầu
Tiểu chức Táo Công
Kính trình Thượng Đế
Năm nay dương thế
Lâm nạn đao binh
Khói lửa chiến tranh
Bùng lan Âu Á
Cõi trần loạn sạ
Trên đất ngoài khơi
Đáy bể lưng trời
Đầy mù sát khí
Khiến thần lo nghĩ
Đến việc hành trình
Lên được Thiên đình
Năm nay thực khó
Sợ nạn tầu bay
Phòng thủ đêm ngày
Thần công cao sạ
Thấy chi là lạ
Lơ lửng trên không
Thời súng đùng đùng
Chĩa lên tua tủa
Hạ thần lo sợ
Cưỡi cá lên mây
Chúng ngỡ tầu bay
Bắn lên loạn sạ
Nếu thần bị nã
Nguy thậm chí nguy
Tính mệnh còn gì!
Thân già bao quản
Nhưng còn công cán
Sứ mệnh trời trao
Thần mệnh hệ nào
Lấy ai đảm nhận?
Vậy xin cẩn thận
Thảo sớ dâng lên
Xin với Hoàng Thiên
Trong thời tranh biến
Cho thần được miễn
Khỏi phải lên chầu
Công việc hoàn cầu
Điều lành điều ác
Hăm ba tháng chạp
Thần sẽ chép biên
Làm sớ gửi lên
Bằng… vô tuyến điện
Thật là rất tiện
Thiên địa giao thông
Cúi lạy Cửu Trùng
Chiểu tình châm chước
Miễn sao cho được
Vạn sự an toàn
Kính chúc Thiên Hoàng
Thiên thiên vạn tuế!
Phu kéo xe
Xưa nay các học trò lười
Mẹ cha mắng mỏ, nặng lời mỉa mai
Rằng: “Mày lêu lổng. rông rài
Nhớn lên thời đến suốt đời kéo xe!”
Bây giờ thời buổi khắt khe
Kéo xe cũng hoá ra nghề khó khăn!
Cu ly cũng phải lấy… bằng
Của toà đốc lý chứng rằng… chính tông
Là người da sắt, xương đồng
Khoẻ chân, cứng gối, vốn giòng kiện nhi
Danh trong, giá sạch như li
Chẳng khi can án, chưa khi ngồi tù
Bao lần giấy, bấy lần… xu
Mới làm nên chức đại “phu xe hàng”
Phải đâu là việc dễ dàng!
Tầu bay bảo hộ
Tầu bay bảo hộ rất oai hùng
Phành phạch vang trời máy nổ bung!
Báo động khôn hồn chuồn mất tích
Coi yên làm phách lượn bay tung
Nạt dân hống hách quen tàn sát
Nghênh địch lơ mơ biếng vẫy vùng
Nghệ Tĩnh, Cổ Am còn vết đó…
Đông Dương nuôi hại đội phòng… không
Tượng lo
A di đà Phật!
Bụt trên toà ngồi ngất bệ sen
Tưởng rằng nhà Bụt chí hiền
Từ bi từ tại, ai phiền nhiễu chi!
Nào nhờ gặp thời kỳ tranh chiến
Cõi phàm trần tai biến lung tung
Loạn đằng Tây, loạn đằng Đông
Cảnh từ bi cũng hãi hùng, tượng lo…
Cũng là bởi duyên do vạ vịt
Tự anh chàng họ Hít tên Le
Dùng dấu hiệu thực éo le
Trăm nghìn vạn dấu, thiếu gì dấu hay
Mà lại chọn nhằm ngay chữ thập
Dấu hiệu riêng nhà Phật từ bi
Để sinh ra chuyện hồ nghi
Giận cá chém thớt, biết thì tại sao?
Chữ thập ngoặc ghép vào quốc cấm
Phướn, cờ còn giấu dấm được chăng
Khắc vào tượng gỗ, mần răng?
Có khi bị đẽo, nên rằng… tượng lo
Trên đây, chúng tôi đã cập nhật dành tặng cho quý độc giả những trang thơ ấn tượng và giá trị của nhà thơ Tú Mỡ. Qua đó ta thấy được một phong cách thơ đầy mới lạ cùng ngòi bút sắc bén của ông.