Phạm Thiên Thư sở hữu một khối lượng thơ lớn và đặc sắc được nhiều người đánh giá cao. Hầu hết những trang thơ của ông là thơ thiền hướng đến phật giáo mang những giá trị cao cả. Thơ ông là nơi mà bạn đọc gửi gắm tâm hồn mình mỗi khi bế tắc và mệt mỏi trong cuộc sống. Bởi vậy người ta mệnh danh thơ ông là ” thi dược ”. Hãy cùng nhau đón xem nhé!
Rũ áo hồng trần
Lại tôi được thấy tỏ tường,
Một thời Phật ngự trong vườn Cấp Cô,
Dưới cây thái tử Kỳ-đà,
Bốn mùa cây cỏ ra hoa cúng dường.
Sáng kia Xá-vệ thành sương,
Cửa ngoài nở mặt trời hường sáng soi.
Phật mang y, bát rạng ngời
Bước chân tịch mặc trong đời tham mê.
A-nan hiền giả gần kề,
Ôm bình theo giữa bốn bề mây vương.
Trên cành hoa sớm dâng hương,
Gió lay rụng những đóa sương diệu kỳ.
Vào thành, đứng lại phố kia,
Gặp ba tử tội đầm đìa châu sa.
Ngựa dong điệu trước một già,
Giáo gươm tỏa ánh chói lòa rợn oai.
Đàng sau áp dẫn hai trai,
Mẹ con ác tặc đến ngày đầu rơi.
Gặp Phật hóa độ tới nơi,
Quan trên dừng lại nghiêng người nể nang.
Nhác trông rực rỡ y vàng,
Tử tù quì xuống giữa đàng van xin.
Hỏi ra mới rõ tội tình,
Phật xin quan hãy vì mình thả ra.
Vâng lời dạy, vội ân tha,
Giao cho về với đức cha đại hiền.
Mẹ con được thả ra liền,
Quì ôm chân Phật hóa duyên, khóc dài.
Rằng “ơn cứu tử của Ngài,
Sống ghi tạc dạ, chết vùi theo sâu.
Thầy ơi! trăm khổ ngàn sầu,
Con xin sám hối quay đầu quy y.”
Phật rằng “oan trái thân kia,
Gieo nhân, hái quả, mau lìa nghiệp duyên.
Từ nay cố gắng tu chuyên,
Ắt sau hưởng phúc nhân thiên đời đời.
Các con hãy nhớ ghi lời,
Mười điều tu thiện là nơi cậy nhờ.
Duyên nay để chuyển nhân xưa,
Chỉ bây giờ biết bây giờ giới trai.”
Nói xong Phật gọi “Thiện lai!”
Lạ thay tóc phủ ngang vai rụng liền.
Áo gai đang mặc trên mình,
Hào quang tỏa chiếu biến thành cà-sa.
Tham mê gội sạch lòng hoa,
Con thành La-hán, mẹ là Bất lai.
Làu làu trí nhiệm mầu khai,
Tâm như ngọc kết trên đài đau thương.
Theo Phật về tới đạo trường,
Cơ duyên kia thật lạ thường ai hay.
Tôi hầu dưới thềm hoa lay,
Căn xưa, xin Phật khai bày xem sao?
Phật rằng “nhân quả theo nhau,
Xem ngày nay biết ngày sau những là
Thuở xưa vua hiền Lý Nha,
Lân bang kiêng nể, dân nhà cậy trông.
Sinh ba hoàng tử hào hùng,
Người tên Lý Nhã rộng lòng từ bi.
Một hôm vua dẫn con đi
Lên non chọn suối lưu ly ngâm mình.
Anh em vào núi tìm quỳnh,
Lội theo dòng biếc in hình trời cao.
Bỗng đâu gặp dưới cội đào
Mẹ con hổ đói khác nào khung xương.
Mẹ nằm ảo não bi thương,
Hai con nhai sữa bên sườn đét da.
Thương tình, ai ngẩn ngơ hoa,
Nhủ thầm hỏi lấy chi mà cứu đây!
Khổ ơi sao khổ thế này,
Kéo lê một tấm thân gầy vì con.
Thâm tình như núi như non,
Ngàn năm nước chảy vẫn còn uy nghi.
Nghĩ hoài chẳng biết lấy chi,
Cứu ba mạng sống đành thì cho thân.
Hai anh giục giã dời chân,
Trở về kẻo để phụ thân buồn rầu.
Nhã thưa: “em sẽ về sau.”
Hai anh hờn giận kéo nhau vội rời.
Nhịn cọp mẹ sắp tắt hơi,
Thế là tự nguyện tới nơi cọp nằm.
Rã rời chẳng thề vồ ăn,
Nhìn như cảm tạ ân nhân dạt dào.
Hoàng tử liền rút lưỡi dao,
Tự đâm ngập cổ máu đào vọt lên.
Hổ mẹ liếm láp tỉnh dần,
Lần hồi ăn hết xác thân đỏ lòm.
Dắt nhau lủi trốn vào non,
Máu loang xương trắng vẫn còn dưới hoa.
Hai anh về gặp vua cha,
Hoàng hậu thấy vắng hỏi là “em đâu?”
“Nhã còn lội suối về sau.”
Vua rằng “sao để rừng sâu một mình?”
Đập bàn thét gọi vệ binh,
Truyền mau lên núi đón nghinh Nhã về.
Vừa tìm đến cội hoa kia,
Thấy đầu hoàng tử đầm đìa máu loang.
Tin như sét dội kinh hoàng,
Hai thân gieo xuống long sàng lịm hơi.
Bỗng nghe văng vẳng từng trời
“Con xin phụ mẫu kịp rời về kinh.
Vì nguyện cứu độ chúng sinh,
Đem thân nuôi cọp thoát hình đảo điên.
Bây giờ sinh hóa cõi thiên,
Tầng trời Đâu-suất, là miền thảnh thơi.
Lầu cung ngọc sáng vàng ngời,
Thấy cha đau đớn, con vời hạc sang.
Tiếc chi một nắm bụi vàng,
Có hình, có hoại, tiếp đàng tử sanh.
Thiện nhân: sinh hóa cõi lành,
Ác nhân: địa ngục quẩn quanh dãi dầu.
Mẹ cha tinh tấn đạo mầu,
Mốt mai con lại được hầu mẹ cha.”
Trên không cánh hạc la đà,
Song thân vừa cũng tỉnh ra bàng hoàng.
Truyền đem hòm ngọc quách vàng
Thu hài cốt nọ vội mang lên đường.
Tháp xây mấy ngọn cúng dường,
Tạc bia ghi chuyện lạ thường xưa nay.
Lý Nhã nay lại về đây,
Lý Nha vua trước: ngày rày phụ thân.
Ba mẹ con hổ rừng xuân,
Sáng nay, nguyện xả bụi trần xuất gia.
Bây giờ, như cánh chim qua,
Thoát lên từ chốn bạo tà tanh hôi.
Thềm lan Phật vẫy gọi tôi,
Vỗ vai nhắn nhủ đôi lời kể đây.
Giếng mắt rồng
Một chiều mây ửng vườn này,
Hoàng hôn nhuộm cánh cò bay chập chờn.
Bướm theo mấy luống hoa vờn,
Đồi thông xa vọng tiếng đờn nao nao.
Bỗng đâu dưới ngõ hoa đào,
Mây năm sắc quyện lối vào nhụy hương.
Hào quang sáng rực non sương,
Như đèn bảy báu dị thường chiếu soi.
Rẽ mây hiện đến hai người,
Trang nghiêm vóc ngọc, tỏa ngời dung hoa.
Gót sen bước đến hiên nhà,
Quì bên thềm cỏ, dưới toà dâng hương.
Chắp tay cầu thỉnh tỏ tường:
”Đại từ bi đấng lòng thương sâu dày.
Con từ cõi nọ qua đây,
Đốt đèn bảy báu, trải mây cúng dường.
Xin ngài chỉ nẻo soi đường,
Tan cơn huyễn mộng lạc thường an vui.”
Phật tùy căn trí mỗi người
Thỉnh chuông diệu pháp ban lời viên âm.
Nhiệm mầu thay! cõi chân tâm
Bừng con mắt khỏi sai lầm vọng mê.
Cúi đầu thi lễ đi về,
Cỏ chen lối biếc hoa kề cổng tươi.
Sáng sau trà nước hầu Người,
Lại thêm hai dĩa dâng mời trái hoa.
Khơi trầm thơm đứng bên tòa,
Hàng hàng Tăng chúng quanh nhà hầu nghe.
Bạch Thầy: “mây cuốn tàn che,
Tối qua hai vị thần về từ đâu?
Hẳn trồng cội đức dày lâu,
Ngày nay phúc báo thân mầu nhiệm kia?”
Ngài rằng: “nhân thể khôn lìa,
Xưa Phật Ca-diếp chuyển mê độ đời.
Sau khi đã nhập diệt rồi,
Bấy giờ chính pháp vào thời dị không.
Có hai người dòng tịnh môn,
Phát tâm kính giữ lưu tồn phép trai.
Một vị nguyện sinh cõi trời,
Một vị nguyện sẽ trị đời đau thương.
Thụ rồi, lui gót chùa hương,
Về nhà vợ mắng “để cơm ai chờ?”
Người thứ nhất, miệng u ơ,
Rằng thôi quá ngọ bây giờ chẳng ăn.
Sáng nay tôi hứa tu hành,
Vợ chàng nghe nói tam bành nổi lên:
“À này anh chớ cố quên,
Đang theo dòng Phạm chẳng quyền đổi thay.
Nếu anh không bỏ giới trai,
Người ta biết sẽ đuổi ngay anh liền.
Tôi anh là hết nợ duyên,
Mỗi người mỗi ngả cho yên mọi bề.”
Mắt sầu ai đốt lòng kia,
Giới trai chi để phải lìa duyên nhau.
Thương thay một giọt lệ châu,
Nhẹ như sương lại đổi màu sắt son!
Gượng dùng đôi bát cơm ngon,
Thế rồi giới nguyện ai còn khói bay.
Tuổi xuân bóng chớp mộng ngày,
Trước sau rồi cũng nằm dài dưới hoa.
Người dù ngọc chuốt vàng pha,
Trước sau thôi cũng da ngà tóc sương.
Rồi ra nắm cỏ bên đường,
Đêm nghe tiếng dế đoạn trường tỉ tê.
Người nguyện làm vua trị vì,
Giới trai toàn vẹn nên về trần gian.
Người nguyện sinh cõi thiên đàng,
Giới trai chẳng vẹn, đọa sang loài rồng.
Cũng do nhân thiện gieo trồng,
Nhà vua trị cõi trần hồng tốt tươi.
Lầu vàng gác ngọc nơi nơi,
Bốn phương nhờ vậy nước trời bao dong.
Dưới trên hòa thuận một lòng,
Sức người như thể biển Đông sóng trào.
Kể chi rừng lý, thôn đào,
Đâu đâu dân cũng ra vào bình yên.
Hoàng cung có một hoa viên,
Trồng toàn cây quý khắp miền tiến dâng.
Gió đưa hương đến quanh vùng,
Xa trông như một khu rừng mây che.
Nhà vua cử một họ kia,
Gọi quan Viên giám, chuyên nghề tỉa hoa.
Hai mùa nắng lại mưa qua,
Ngắt bông hái trái gửi ra điện phòng.
Một hôm trên giếng mắt rồng
Nổi lên một trái nhác trông tuyệt vời.
Ánh vàng rực rỡ tỏa ngời,
Mùi thơm dù sánh hương trời cũng thua.
Đem về cung hiến lên vua,
Của tiên nào có ai ngờ được ăn.
Dao vàng dĩa ngọc cắt lần,
Lạ thay trăm mối lụy trần sạch sanh!
Hỏi xem sự việc rõ rành,
Hẳn chim tha đậu trên thành giếng rơi.
Giờ sao dõi vết chim trời,
Sáng rong núi Bắc, chiều rời biển Đông.
Lóng vua còn khát khao trông,
Truyền quan coi giữ giếng rồng đợi chim.
Trở về ngày dõi đêm tìm
Thấy chi đâu giữa im lìm cỏ hoa.
Lần hồi xuân lại đông qua,
Mãi tà dương lại theo tà dương đi.
Thế rồi đến một đêm kia,
Vị quan ngồi lắng sao khuya nghìn hàng.
Dưới lòng giếng ẩn bóng trăng
Bỗng dưng hóa hiện muôn tầng lầu cao.
Xà cừ, mã não, trân châu,
Dặm đường liễu rũ, nhịp cầu cuộn mây.
Còn đang lặng ngắm ngất ngây,
Bỗng xô cửa nguyệt một người hiện ra.
Dáng thần sáng ngọc tươi hoa,
Dâng mâm trái quý chói lòa vườn Đông.
Rằng “tôi là hóa thân rồng,
Với nhà vua trước cũng trong thâm tình.
Cũng dòng Phạm-chí tịnh thanh,
Lại cùng nguyện giữ pháp lành Bát trai.
Vua giới hạnh được làm người,
Tôi không theo trọn đọa nơi cõi rồng.
Giờ thân ở dưới long cung,
Vô minh còn nặng đèo bồng từ xưa.
Lòng tôi tha thiết cầu vua
Giúp cho ánh sáng Phật thừa từ bi.
Bát quan trai pháp tu trì,
Để tôi trai giới cầu về nhân thiên.
Nếu như chẳng thỏa nguyện trên,
Sẽ về gọi nước dâng lên hoàng trào.
Bấy giờ muôn nóc lầu cao,
Cũng theo vương quốc chìm vào biển khơi.”
Nói rồi cung kính nghiêng người,
Trở vào lòng giếng lại ngời trăng trong.
Giám viên xiết đỗi kinh lòng,
Vội lên quì trước sân rồng trình tâu.
Vua nghe thêm mối lo sầu,
Pháp giới trai biết tìm đâu bây giờ.
Sớm chiều ra ngẩn vào ngơ,
Lệnh truyền kiếm khắp đình chùa xưa nay.
Cũng là tìm dấu chim bay,
Đạo xưa ai biết diễn bày ra sao!
Lòng thành cảm đến ngôi cao,
Quán Âm mới trải bông đào thánh kinh.
Sáng ngày vừa rạng bình minh,
Bên thành ai kết muôn hình chữ hoa.
Rõ ràng giới pháp Phật-đà,
Vua truyền sao chép phát ra khắp cùng.
Lại đem thảy dưới giếng rồng,
Bỗng nghe ngàn chiếc trống đồng rình tai.
Nhờ công tu tập pháp trai,
Rồng kia cởi thoát hình hài thành tiên.
Nhà vua cũng giữ đạo hiền,
Đến ngày nghiệp tận cõi thiên hóa về.
Hai người đều trụ cõi kia,
Cùng nhau sám hối tu trì sớm hôm.
Tối qua tìm gặp Thế tôn,
Đến đây cầu đạo chân thường thế gian.
Hai vị chứng quả Đà-hoàn,
Lìa ba đường dữ, Niết-bàn là nơi.”
Nghe xong Tăng chúng ngậm ngùi
Lâng lâng, lòng ngập niềm vui trọn lành.
Trồng đào cúng Phật
Ngày xưa nơi Xá-vệ thành,
Có nhà giàu nọ phúc lành dày lâu.
Thường hay giúp kẻ cơ cầu,
Khiến cho giải oán vơi sầu nhiều nơi.
Cho nên phước báo tuyệt vời,
Sinh được một trẻ khác đời xưa nay.
Vừa ra đã biết hỏi ngay:
”Cha ơi, Phật vẫn trụ đời phải chăng?
Các ngài Xá-lợi, A-nan
Hẳn đi hóa độ thế gian chưa về?”
Tin đồn đãi khắp vùng quê,
Ai nghe chẳng muốn tìm về chia vui.
Phú ông thắng kiệu cùng người
Đi hỏi duyên cớ đến nơi vườn hồng
Bạch Phật: “đệ tử sinh con
Biết nói từ lúc lọt lòng, lạ chưa!
Chẳng hay do thiện nghiệp xưa
Hay là oan trái bây giờ báo nhau?”
Phật cười: “tích đức dày lâu,
Sinh ra phúc quả nhiệm mầu đó thôi.
Trẻ sau trí tuệ tột vời,
Làm cho tôn tộc đời đời quang vinh.
Vẻ vang khắp cõi nhân sinh,
Đó là đất phước, trí minh để đời.”
Nghe như cam lộ tỉnh người,
Cúi đầu lễ tạ, ngựa rời về thôn.
Tới nhà vừa lúc hoàng hôn,
Chim đâu tụ suốt chiều hôm vui vầy.
Vào phòng, trên chiếc nôi mây,
Gặp cha, trẻ lại tỏ bày thiết tha:
”Lòng con muốn thỉnh Phật-đà,
Rước theo Tăng chúng về nhà cúng trai.
Cha chìu con thỏa nguyện này,
Vì con thực đã bao ngày ước mong.”
Ông rằng: “sẽ được như lòng
1.050. Để cha sửa lễ cúng dường Như Lai.”
Trẻ thưa “La-nại thành ngoài,
Mẹ xưa còn ngụ xóm chài héo hon.
Đón về cho mẹ nhận con,
Trần gian lưu một nét son nghĩa tình.
Xin bày ba tòa cung nghinh,
Ngồi trên: Tăng, Phật chứng minh lễ đài.
Kế tòa thanh tịnh phạn trai,
Dành mời hiền mẫu xóm ngoài thành La.
Một tòa cung thỉnh mẹ cha,
Trên ơn Tam bảo, dưới nhà thuận vui.”
Hôm sau thiết lễ trai thời,
Hồng tươi hoa điểm, xanh ngời trầm vương.
Ẵm trẻ ra lễ thềm hương,
Thỏa lòng kính ngưỡng, vẹn đường thâm ân.
Cũng nhờ diệu pháp chính chân,
Một nhà tỉnh giấc mộng trần mê si.
Trẻ sau cũng được quy y,
Như chim vỗ cánh xuân thì bay sang.
Chẳng bao lâu chứng đạo vàng,
Quả A-la-hán rõ ràng nhân thiên.
Một hôm hầu Phật bên thềm,
Tôi đem chuyện hỏi: nhân duyên lẽ nào?
Vừa tu đã chứng đạo mầu,
Vừa sinh đã nói làu làu chuyện xưa?
Phật rằng “gió thoảng mây đưa,
Chuyển mê, khai ngộ một bờ chẳng hai.
Tiền thân cậu bé kiếp này
Là con một họ ở ngoài thành La.
Lạc loài từ thuở mất cha,
Đi làm nuôi một mẹ già sớm hôm.
Lần hồi bữa cháo bữa cơm,
Chân mòn cát trắng, áo đơm bụi hường.
Một hôm gặp Phật bên đường,
Lấy chi mà để cúng dường bậc cao?
Lần lưng còn một hạt đào,
Quyết đem hạt nọ ương vào vườn kia.
Nguyện sau cây lớn xum xuê,
Bên đường cho khách đi về nghỉ ngơi.
Nguyện xin trái thẫm hoa tươi,
Lợi riêng nhưng để người người hưởng chung.
Theo như lời Phật mà nương,
Cứu muôn loài để cúng dường mới cao.
Nhờ công đức cấy hạt đào,
Kiếp này thân được sinh vào giàu sang.
Đường tu chứng ngộ đạo vàng,
Rồi đây muôn cõi cúng dàng kể chi.”
Phật ngồi bên giậu tường vi,
Chùm hoa xanh nở trên y nhuốm vàng.
Một con bướm dại vừa sang,
1.100. Cánh bay lẫn giữa đôi hàng xuân hoa.
Lão đánh cá và thần biển
Ngày xưa dân xóm giang hà,
Trên bờ sông liễu thướt tha mấy hàng.
Một hôm chung tậu thuyền buôn,
Tìm châu ngọc giữa đại dương bềnh bồng.
Dẫn thuyền là lão ngư ông,
Thạo nghề biển, lại giữ lòng giới trai.
Thâm sâu giáo lý Như Lai,
Vượt trên sóng bạc buồm vài cánh trương.
Lênh đênh giữa biển mù sương,
Vời trông xóm nhỏ tà dương phai vàng.
Đêm kia gặp chuyện kinh hoàng,
Thủy thần hiện giữa mênh mang khói mờ.
Quanh mình trăm ngọn sóng xô,
Đeo xâu xương trắng ngang bờ vai cao.
Đôi môi còn đậm máu đào,
Chặn thuyền cất tiếng thét gào bi thương:
“Ta đây ngự trị đại dương,
Trần gian ai đáng sợ hơn thân này?”
Ngư ông đáp “kể xưa nay,
Những người hung tợn hơn ngài thiếu chi!
Đó là những kẻ sân si,
Sát, dâm, trộm, dối, nặng vì lòng tham.
Chết sa ngục khổ vô vàn,
Dao trăm mũi xả, gươm ngàn mũi phanh.
Hoặc xe nghiền nát tan tành,
Hoặc giam cõi ngục đóng đanh lửa hồng.
Nát thân rồi lại liền không,
Trăm nghìn lần sợ, hơn ông kể gì!”
Nghe rồi, thần hóa thân đi,
Hiện ra giữa biển lưu ly một người
Xấu xa hình vóc lạ đời,
Đến bên thuyền hỏi xem nơi trần hoàn:
“Có ai lạ hơn ta chăng?”
Ngư ông cười đáp “thưa rằng quá quen.
Đó là những kẻ bon chen,
Gian tham, nịnh hót, ghét ghen đủ điều.
Cũng vì tà kiến tự kiêu,
Chết đi trả nghiệp trăm điều chưa thôi!
Thân làm ngạ quỉ tanh hôi,
Đói cơm, khát nước, trùn giòi đục thân.
Mồm như lò lửa cháy rần,
Nhọt ung rỉ mủ liếm ăn lần hồi.”
Nghe qua thần cũng rụng rời,
Biến thân đi, lại hiện người đẹp sang.
Tay hoa sáng ngọc tươi vàng,
Tóc mây lả ngọn dịu dàng hương lơi.
Tiếng nghe thánh thót tuyệt vời,
Mắt nhung huyền hoặc nghiêng trời sóng nao.
Nàng cười hỏi “chốn trần lao
Ai nhan sắc kịp má đào này chăng?”
Ông rằng “sánh ngọc đua trăng,
Trần gian đâu thiếu người bằng ngài đây.
Đó là phúc tuệ sâu dày,
Những ai tu dưỡng tháng ngày tịnh thanh.
Giữ thân, khẩu, ý trọn lành,
Cúng dường nhất thiết chúng sanh nguyện đời.
Mệnh chung sinh hóa cõi trời,
Thân tươi vẻ ngọc, trí ngời ánh gương.
Thần thông biến hóa mười phương,
Hoa lay là vóc, mây vương là người.
Ngài dù trăm tốt ngàn tươi,
Chẳng qua huyễn hóa giữa nơi hồng trần.
Sớm như bọt nổi, phù vân,
Tan theo ngọn nước lênh đênh cuối ngày.”
Thần múc nước biển đầy tay,
Hỏi “nước trong vốc hay ngoài nhiều hơn?”
Ông rằng “biến đổi vô thường,
Nước trong tay nọ nhiều hơn biển ngoài.
Vì, dù nước réo trùng khơi,
Tuy nhiên rồi cũng có thời cạn khô.
Khi hai mặt trời vừa nhô
Thì bao ngòi lạch ao hồ sạch không.
Lại khi ba mặt trời hồng
Thì trăm ngàn vạn dòng sông thành đường.
Lại khi bảy mặt trời hường
Thì khô hết nước trùng dương cõi này.
Kim cương giữa cõi đất dày
Cũng thành một đám mây bay bụi tàn.
Còn người vượt bến mê sang…
Cứi muôn loài khổ, lên đàng thảnh thơi.
Trải muôn kiếp chẳng đổi dời,
Đó là ví nước tay người nhiều hơn.”
Thần nghe ngộ lẽ chân thường,
Gửi dâng châu ngọc cúng dường Như Lai.
Lại đem bảo vật tặng ai,
Đạo mầu thâm diệu, biện tài mênh mang.
Buồm cao ngóng nẻo ráng vàng,
Một chiều về bến sông hoàng hoa tươi.
Ngọc châu chia khắp người người,
Lão ông lại kịp đến nơi đạo trường.
Quì ngoải lều cỏ dâng hương,
Chúng con nguyện thoát vô thường cầu tu.
Kính xin Phật nhủ lòng từ,
Độ người chìm đắm qua bờ sông mê.
Non cao vân tập chim về,
Tiếng rơi thơm mát bốn bề hoa lay.
Đoàn người kia, bỗng lạ thay,
Trần tâm rũ sạch, tan mây huyễn mờ.
Áo thành vô nhiễm cà-sa.
1.200. Chứng quả La-hán chói lòa thần thông.
Lại thêm trời trải mây hồng,
Như hoa gấm phủ thinh không mấy từng.
Tìm duyên giải thoát
Ngày xưa có đền Thùy Dương
Ven sông, sớm tối khói hương phụng thờ,
Bốn mùa chim tụ mây đưa,
Hoa dâng nắng sớm, lau thưa khói chiều.
Lại, qua, xe ngựa dập dìu,
Ai không hiến lễ ít nhiều hoa hương.
Một hôm có khách thập phương,
Là quan tể tướng thành vương ghé vào.
Khấn rằng “muôn dặm âm hao,
Nghe thần từng giúp biết bao nhiêu người.
Nay xin quý tử ra đời,
Được như, tôi hiến vàng mười điểm tô.
Bằng không sẽ lấy than tro,
Trát lên thần tượng, miếu thờ đập tan.”
Khấn xong lại trở lên đàng,
Về thành lấp lánh đôi hàng giáo gươm.
Địa thần lên điện Thiên vương,
Quì ngoài sân ngọc tỏ tường trình thưa.
Vương truyền: “ta sẽ tâu vua
Lên cung Đế-thích cho vừa ngày trao.”
Chúa tôi vẫy đám mây đào,
Cõi trời Đao-lợi, thẳng vào quì tâu.
Mây sa rồng cuộn trước lầu,
Rằng “thần có một tôi hầu trước kia.
Quan tể tướng nước Duyệt-kỳ,
Đến xin quý tử sinh về năm nay,
Bằng không, san miếu thẳng tay,
Giờ cầu Thiên đế, việc này quyết xong.”
Nhân khi có một tiên ông
Đến ngày nghiệp tận, bệ rồng vời qua.
“Trẫm nghe nơi cõi trần sa
Có quan thừa tướng là nhà hiền lương.
Thác sinh khanh sớm lên đường,
Đầu thai xuống chốn thành vương dõi truyền.”
Thực lòng ông mới trình lên:
“Vinh hoa là cửa ưu phiền ngục sâu.
Ý tôi chẳng muốn sang giàu,
Nguyện sanh chốn khổ, dễ cầu đạo tu.
Dù nơi dân dã bần ngu,
Còn hơn lầu các giam tù một mai.”
Đế rằng “khanh cứ đầu thai,
Rồi sau ta giúp cho ai toại lòng.”
Cúi đầu lạy ta thềm rồng,
Đôi con hạc đón tiên ông lên đàng.
Một đêm trong giấc mơ màng,
Quan tể tướng thấy hào quang chói lòa.
Sáng sau lại được tin nhà,
1.250. Phu nhân mãn nguyệt khai hoa đêm rồi.
Một trai tướng đức tuyệt vời,
Lâng lâng vẻ ngọc, sáng ngời vóc hoa.
Tin vui truyền khắp gần xa,
Ông đem vàng ngọc dựng tòa miếu thiêng.
Một vị đạo sĩ quanh miền,
Cũng rời trang trại chống thiền trượng qua.
Xem tướng xong, đặt Hằng-gia
Dạy rằng trẻ nối dòng nhà vẻ vang.
Lần hồi Thu lại Đông sang,
Hằng-gia cốt cách phi phàm biết bao.
Tánh ưng nghe thuyết đạo mầu,
Sớm xin cha mẹ cho đầu Phật gia.
Thưa rằng “thấm thoát ngày qua,
Tấm thân ai có biết là khói sương.
Làm người đã khó khôn lường,
Lại còn gặp Phật dẫn đường, vinh thay!
Ngàn năm đâu dễ hội này,
Mở khai chính đạo độ đời tham mê.
Cho con tầm đạo tu trì,
Thoát ra ngoài cõi so bì giả danh.”
Phụ thân nói “muốn tu hành,
Dù nơi lầu các, rừng xanh cũng là.
Cần chi bỏ cửa bỏ nhà,
Đày thân nắng dãi sương pha lần hồi.
Mẹ cha có một con thôi,
Sẵn đầy tài sản, hơn người quyền danh.
Nếu con quyết chí tu hành,
Ra đi cha mẹ cũng đành nhớ thương.
Kể chi đến chuyện tông đường,
Dòng nhà thôi cũng hết phương dõi truyền.
Chi bằng mở rộng đạo duyên,
Con dùng phương tiện chở chuyên giúp đời.”
Lòng cha nào thể đổi dời,
Nói chi, đôi mắt lệ ngời rưng rưng.
Một hôm cưỡi ngựa vào rừng,
Thấy đôi hạc tía trên từng mây trôi.
Hạc bay thăm thẳm chân trời,
Lánh xa mây trắng rạc rời dưới non.
Còn ta danh lợi quay tròn,
Quẩn quanh trăm mối, hao mòn hai vai.
Tốt hơn trút bỏ thân này,
Đành như cởi áo, đổi thay thế tình.
Quyết lòng đỉnh núi gieo mình,
Xuống khe mây ngút như hình lá rơi.
Lạ thay! một dải sương trời
Biến thành võng lụa đỡ người vàng châu.
Hằng-gia mặt héo mày sầu,
Lại tìm ngọn nước dưới cầu gầm reo.
Trông mây man mác qua đèo,
1.300. Nguyện như mây nọ, lìa gieo giữa dòng.
Lạ thay, bọt nước trên sông,
Kết thành một đóa sen hồng đỡ thân.
Làm sao thoát kiếp phù trần,
Mượn liều thuốc độc, thêm lần đổi thay.
Uống vào năm sáu chén đầy,
Mà sao trí vẫn hiện bày như trăng!
Tìm phương tính kế cho bằng,
Xô tan nghiệp lụy xích thằng mà ra.
Một hôm giữa nội cỏ hoa,
Bên dòng suối mát, đàn ca vang ngần.
Bao nhiêu mỹ nữ cung tần
Xuống dòng suối biếc ngâm thân vui vầy.
Áo hồng tía vắt trên cây,
Tóc ai đem xỏa bóng mây giữa dòng.
Ngựa chàng đỉnh núi xa trông,
Tự nhiên nảy kế thoát vòng trần ai.
Nghĩ rồi, quyết thực hành ngay,
Xuống đầu suối mát nằm dài hát ca.
Tiếng nào vọng giữa rừng xa,
Lơ thơ hoa rụng, la đà sóng vang.
Sương thu quyện tiếng ca chàng,
Dòng thu cuộn cánh hoa vàng đến vua.
Gió buồn não trận sầu mưa,
Nói cười im bặt bên bờ cỏ êm.
Đùng đùng vua nổi bão ghen,
Kẻ nào dám tắm trên ghềnh suối ta.
Thét quân gươm giáo sáng lòa,
Lên non tìm bắt để mà khai đao.
Trăm hoa ủ dột má đào,
Lại như dầu nọ thêm vào lửa sân.
Đã nghe ngựa hí vang rần,
Rẽ sương đầu núi ba quân kéo về.
Dẫn theo một gã cuồng kia,
Hoa chen gót tía, mây chia tóc bồng.
Truyền đem trói trước kiệu rồng
Chặt đầu, chuộc tội nghìn hồng mất vui.
Lệnh ban hoa cỏ bùi ngùi,
Gã kia mắt biếc tươi cười tự nhiên.
Gươm vừa chạm đến mình tiên,
Bỗng dưng đao phủ thét lên rụng rời.
Vì gươm báu chợt gãy đôi,
Vua truyền cởi trói run lời hỏi han:
“Hẳn thiên tiên xuống trần gian,
Có điều chi muốn bảo ban lão thần?”
Hằng-gia quì dưới trình lên:
“Phận hèn muôn đội ơn trên cao dày.
Là con tể tướng nước này,
Vì không toại nguyện nên đày đọa thân.
Tính nhờ gươm pháp minh quân,
1.350. Xóa đi một kiếp hồng trần cho xong.
Giờ xin vua thỏa nguyện lòng,
Khuyên can nghiêm phụ, dám mong gì nhiều.
Cho thần tìm đạo cao siêu,
Thoát đường danh lợi, là điều thiết tha.
Về nương dưới bóng Phật-đà,
Bước chân quyết vượt ái hà mê tân.”
Lòng vua cảm mến muôn phần,
Truyền sai đón bậc lão thần bảo ban.
Rồi vua lại tự đưa chàng
Đến nơi tịnh xá dưới hàng hoa rơi.
Phật đang dạo ngó mây trời,
Bước chân tuyết rụng xanh ngời cỏ xuân.
Hằng-gia chợt thoát mê tân,
Như chim vượt khỏi lưới trần phiêu bay.
Vua A-xà-thế tỏ bày:
“Nhân chi mà hưởng quả này phúc duyên?
Dù cho gươm giáo cung tên,
Ai kia chạm đến bực hiền được sao.
Lại còn tám vạn trần lao,
Thoát lìa một chớp, ra vào ngại chi?”
Phật rằng “tiền kiếp xưa kia
Có vua nước lớn trị vì muôn dân.
Một hôm cùng các phi tần
Dong xe lên đỉnh non thần đàn ca.
Bỗng nghe vẳng tiếng tiêu hòa,
Khiến bao giọng ngọc khóc hoa lặng chìm.
Thét quân vua bắt đi tìm
Tiếng tiêu thoắt hiện, thoắt im dặt dìu.
Lưng non, gặp một gã tiều
Đang ru mình giữa tiếng tiêu nhịp nhàng.
Lệnh vua tức khắc đem giam,
Chỉ vì một khúc tơ oan tội tình.
Đường về gặp quan giám binh,
Hàng hàng gươm giáo lạnh mình oai nghi.
Động lòng thương xót gã kia,
Chút say nghệ sĩ, can gì đầu rơi!
Đến vua quì gối tâu lời:
”Chấp chi một khúc nhạc rời rã hoa.
Cúi xin ơn rộng hải hà,
Hiếu sinh dung kẻ tài ba một lần.”
Nhà vua nể nghĩa quân thần,
Cũng nguôi nộ khí truyền quân thả người.
Vị quan cứu tử mừng vui,
Cho làm nghĩa tử theo đòi sớm hôm.
Lần hồi xuân hạ thu đông,
Suối xanh rồi cũng nhớ sông cát vàng.
Gã tiều thấm lẽ vô thường,
Tưởng lều cỏ cũ, chán chường phố mây.
Chàng thưa “nguyện có cao dày,
1.400. Công ơn nghĩa phụ lòng này tạc ghi.
Muốn đền đáp, biết lấy chi,
Con xin về núi tu trì thiện căn.”
Ông rằng “việc chẳng nên ngăn,
Nhớ khi đắc đạo về thành độ cha.”
Tạ từ lui bước chân ra,
Như voi nhớ chốn rừng già kịp đi.
Như sông nhớ biển lần về,
Như ai ngàn dặm nhớ quê võ vàng.
Rừng xưa nơi bãi cỏ hoang,
Dựng lều lau sậy ẩn tàng chí cao.
Sớm hôm suy gẫm tìm cầu,
Phá tan huyễn vọng, nhiệm mầu tâm khai.
Dùng thần thông đạp mây bay
Về thăm nghĩa phụ, hiện bày tâm quang.
Chiếu ra núi biếc trời vàng
Thành hơi gió thoảng chiên đàn lâng lâng.
Thấy con, nghĩa phụ vui mừng,
Nguyện lòng, ngưỡng vọng lên từng mây đưa.
Duyên may được cứu ngài xưa,
Từ lên tu núi khắc giờ thầm trông.
Bây giờ phúc tuệ thần thông,
Xin ngài cứu độ, qua sông mê này.
Rồi nương chính pháp sâu dày,
Sớm hôm tu dưỡng hầu thầy độ sinh.
Hậu thân của vị giám binh,
Là Hằng-gia đó liều mình cầu tu.
Thân này trong cõi phù du,
Mà luôn thức tỉnh cho dù bến mê.
Cũng nhờ hạnh nghiệp xưa kia,
Kiếp này khai ngộ Bồ-đề tâm không.
Từ đây cởi áo trần hồng,
Như con sáo sậu qua sông trở về.”
Nghe rồi, vua bước lên xe,
Cờ reo dậy đất, tàn che rợp nhà.
Phật kêu Bồ-tát Hằng-gia,
Dạo bên suối lạnh ngó hoa xuôi dòng.
Cát vàng óng ánh đáy trong,
Hoa man mác nổi trên dòng suối lơi.
Hằng-gia hiểu ý Phật rồi,
Chắp tay lễ tạ, kịp dời gót chân.
Một nhà mai trúc đầy sân,
Giúp vua, trị nước, cứu dân thỏa lòng.
Như trăng sáng tỏa hư không,
Ngại chi hiện giữa giọt hồng sương hoa.
Người con hiếu hạnh
Ngày xưa Phật ở đất La,
Trong vườn lục trúc nơi nhà cỏ tranh.
Ngày ngày hóa độ trong thành
Như chim Thu tự cõi thanh tịnh về.
A-nan hiền giả hầu kề,
1.450. Bước chân theo nở đóa lê đậm đà.
Cổng Đông có một túp nhà,
Ông thường thấy vợ chồng già què đui,
Và con trai mới lên mười,
Nó đi khắp phố đông người xin ăn.
Cơm ngon trái ngọt để dành
Về nuôi cha mẹ, lòng thành tự nhiên.
Đã lưu tâm đến trẻ hiền,
Một hôm hầu Phật, ông liền trình thưa:
“Từ ngày thỏa gót mây đưa,
Con thường qua mái tranh thưa bên thành.
Thấy một đứa bé hiền ngoan,
Kiếm nuôi cha mẹ cơ hàn một thân.
Thôi thì nắng hạ mưa xuân,
Thời gian nứt nẻ gót chân đọa đày.”
Phật dạy “phúc đức sâu dày,
Kẻ nào hiếu thuận vui vầy mẹ cha.
Tiền thân nhớ một đời ta
Nguyện đem cái chết cứu cha mẹ hiền.
Nên chi hưởng quả nhân thiên,
Trên trời: tiên đế, dưới trần: thánh vương.
Đời nay thành Phật Thế tôn,
Cũng nhờ cội phúc lưu tồn xa xưa.”
A-nan hầu chắp tay thưa:
“Xin thầy dạy nghiệp xưa như thế nào?”
Phật rằng “trong cõi mộng đào
Có vua Đỗ Bá, hoàng trào oai danh.
Được mười hoàng tử tinh anh,
Mỗi người giữ một tiểu thành chăn dân.
Người con út hiệu Thiện Thân,
Lòng từ tế thế, tài thần an bang.
Bỗng đâu nghiêng ngửa triều đàng,
Tướng quân soán đoạt ngai vàng ai hay.
Đất bằng sóng nổi cát bay,
Voi xô cửa ải, ngựa dày xác dân.
Kéo về vây bắt Thiện Thân,
Thế cô chẳng thể chống quân bạo tàn.
Ngài cùng vợ dắt con ngoan,
Nửa đêm cải dạng lên đàng lưu vong.
Tháng ngày vượt núi băng sông,
Chân xa cố quốc, lòng trông đất nhà.
Lần hồi đói khát cả ba,
Phu nhân lo lắng biết là cậy đâu.
Thương chồng con, dạ quặn đau,
Chẳng đành chết đói nhìn nhau một bầy.
Chi bằng ta lóc thịt tay,
Nuôi chồng con sống qua ngày còn mong.
Thân ta sao cũng cam lòng,
Còn hơn chết hết chẳng công ích gì.
Phu nhân mắt lệ đầm đìa,
1.500. Quyết lòng toan tính xa lìa trần lao.
Người con giằng được lưỡi dao,
Tự đâm vào ngực, máu đào vọt tuôn.
Hai thân xiết đỗi kinh hồn,
Thều thào con trẻ thở dồn thưa qua:
“Lòng con muốn cứu mẹ cha,
Xin dùng thịt nọ để mà cầm hơi.
Hồn con vương vất chân trời,
Mừng cha mẹ sống, ngậm cười mà đi.
Nếu song thân chẳng dùng thì…
Hồn con mãi mãi sầu bi dưới mồ.”
Thưa rồi khép mắt hư vô,
Mẹ cha khóc ngất lệ khô tuôn dòng.
Bỗng nghe văng vẳng thinh không,
Chim đâu thả xuống trái hồng trái lê.
Lại thêm bầy thỏ kéo về,
Thi nhau dâng mạng bên khe lách vàng.
Tưởng như trong giấc mơ màng,
Lần ăn, hai tấm thân tàn cầm hơi.
Đáy mồ lót nắm cỏ tươi,
Nóc trồng hoa trắng cho người con ngoan.
Thương thay, dế khóc trùng than,
Bên rừng gửi nắm xương tàn bụi sương.
Sáng sau tiếp tục lên đường,
Chân qua cuối thác hồn vương đỉnh triền.
Hai năm ở nước láng giềng,
Mài gươm sửa giáp chiêu hiền dấy quân.
Kéo binh về dẹp loạn thần,
Qua rừng xưa vẫn xanh ngần mộ hoa.
Não lòng ai chẳng lệ sa,
Tạc bia dựng miếu mấy tòa khói nhang.
Rồi sau thâu đoạt thành vàng,
Dựng lên triều đại huy hoàng muôn thu.
Đó là duyên nghiệp ta xưa,
Thiện Thân ngày trước, bây giờ Tịnh vương.
Phu nhân một thuở toan đường
Hủy thân, giờ hiện mẫu hoàng Ma-gia.
Trẻ hiền trước bỏ thân hoa,
Nhờ công đức lớn, bây giờ là đây.”
Nghe xong diệu pháp khai bày,
Trong lòng ghi nhớ lời thầy từng câu.
Bao đời hiếu hạnh cao sâu,
Kết nên ánh sáng nhiệm mầu Như Lai.
Quanh thềm phơ phất hoa lay,
Mỗi nhành lá mỗi búp tay cúng dường.
Thay đổi dung hoa
Ngày xưa, trong một vườn hương,
Mái lầu trời lợp, nẻo đường mây sa.
Điện son gác tía đôi tòa,
Là nơi công chúa xấu xa lạ đời.
Vừa trông ai chẳng rụng rời,
1.500. Trần gian nào thể có người dị hơn.
Tên nàng vua đặt Kim Cương,
Riêng xanh ngại liễu, riêng hường thẹn ai.
Cuối xuân nhặt xác hoa phai,
Chớm thu đứng vịn cành dài rạc sương.
Con uyên nó hót trên tường,
Tiếng kêu như rụng bên giường ngẩn ngơ.
Má hồng lại ửng trái tơ,
Mà phòng riêng chỉ hững hờ gió thôi.
Đêm đông lệ nóng bồi hồi,
Tiếng hoa ngoài rụng ngỡ người thầm trông.
Ngán thay riêng nguyệt lẻ hồng,
Chẳng như đôi nhạn ngoài đồng tuyết rơi.
Vua cha dạ rối bời bời
Tìm phương tính kế an bài duyên con.
Mong gì danh tộc vương tôn,
Thì thôi tìm chốn xóm thôn nghèo nàn.
Việc giao cho một huyện quan
Dạo xem cuối núi đầu làng được ai.
Ngày kia gặp một chàng trai,
Cũng dòng thư kiếm tuổi ngoài đôi mươi.
Tóc xanh như cuộn tơ trời,
Dáng đi tưởng thoáng hạc rời non hoa.
Nắng sương nuôi một mẹ già,
Sóm mai đốn củi, trăng tà đọc thư.
Tháng ngày bữa cháo bữa dưa,
Chỉ vui hoa cỏ, chẳng ưa lợi quyền.
Huyện quan viết sớ tâu lên,
Vua liền lo liệu định duyên ngọc vàng.
Họ kia nghĩ cũng thương nàng,
Còn thôi, quyền tước giàu sang nghĩa gì.
Âm thầm hoa kết rèm che
Về thôn, ngựa cuốn đôi xe ngọc ngà.
Dựng lên lầu các nguy nga
Giữa vườn mai trúc một nhà an vui.
Vợ chàng sầu vẫn chưa nguôi,
Nghĩ mình nào xứng với người được sao.
Một hôm dưới cổng băng đào,
Có sư hóa độ ghé vào trang nghiêm.
Rằng đây gặp đại nhân duyên,
Đến ngày Phật độ người nên lạy mời.
Kim Cương lấy trái hoa tươi
Đem ra cung kính dâng người xuất gia
Rằng “con thể vóc xấu xa,
Dám đâu đến trước Phật-đà dâng hương.”
Bỗng trời lãng đãng mây vương,
Hóa thân Phật đẹp dị thường dưới hoa.
Áo như ráng đỏ la đà,
Tay như hoa giữa chiều tà đơm tươi.
Lòng trần như rũ sạch ngời,
Thân xưa, giờ đẹp tuyệt vời lạ thay!
Nhà sư hóa cánh hạc bay
Lẫn trong mây trắng giăng đầy thướt tha.
Nàng lên lầu ngắm gương ngà,
Thấy mình thay đổi khác xưa thực rồi.
Da như hồng ửng mơ tươi,
Mắt như trầm nguyệt giữa trời mây tơ.
Còn đang lặng ngắm ngẩn ngơ,
Từ đâu chàng đến sững sờ trước gương:
“Em đây phải chính Kim Cương,
Mà sao nhan sắc khác thường thế em?”
Nàng thưa: “tiền kiếp nhân duyên,
Vừa rồi gặp Phật hóa thân ngọc vàng.
Cổng hoa rực rỡ hào quang,
Tự nhiên em thấy bàng hoàng tâm thân.
Rồi tay như búp hoa ngần,
Rối thân như liễu, gót chân như đào.”
Vợ chồng mừng rỡ xiết bao,
Bâng khuâng hai bước, nao nao một lòng.
Liền tìm mẹ dưới vườn hồng,
Nghe hai con kể, ròng ròng lệ vui.
Thắng xe ngựa bạch kịp dời,
Bõ khi phố núi chân trời một thân.
Bây giờ gió cuộn phù vân,
Về thăm viếng bực song thân tại trào.
Nhà vua tuởng giấc chiêm bao,
Biết đâu rồi chẳng mộng đào qua nhanh.
Tin vui truyền khắp hoàng thành,
Cung tần mỹ nữ vân hành đến thăm.
Người đâu tuấn tử giai nhân,
Nào hay tiên động non thần lạc đây.
Cơ duyên như thực tỏ bày,
Vua cha hoàng hậu chọn ngày dâng hoa.
Ngựa hồng kéo cỗ xe ra,
Dừng bên tinh xá mấy nhà trầm vương.
Phật ngồi trên nệm cỏ hương,
Nhà vua đem chuyện lạ thường hỏi thưa.
Phật rằng “tiền kiếp xa xưa,
Nơi thành La-nại có nhà giàu sang
Phát tâm thanh tịnh cúng dàng
Vị Phật Độc giác trú hang Nguyệt Tà.
Dị hình cổ quái xấu xa,
Những khi ngài ghé qua nhà hóa trai,
Phú ông có gái trang đài,
Then niêm cổng nguyệt hoa gài rèm châu.
Mỗi khi thấy Phật ngang lầu,
Dung hoa lại thoảng nét sầu kém vui.
Một hôm sắp nhập diệt rồi,
Thần thông hiển tướng độ người trần lao.
Thinh không có tán mây đào,
1.650. Kết thành võng gấm cáng vào nhà trai.
Phật ngồi như tuyết như mai,
Môi tươi nét ngọc, tay dài búp tơ.
Tiểu thư quì lạy sững sờ,
Khóc xin sám hối tội xưa chết người.
Rằng “con có mắt không ngươi,
Chấp vào hình tướng buông lời khinh chê.
Giờ xin ơn Phật chở che,
Nguyện theo ánh sáng Bồ-đề quy nương.”
Nay là công chúa Kim Cương,
Cũng vì nhân trước khinh thường thánh Tăng.
Lại nhờ sám hối ăn năn,
Sớm hôm tu đạo phước căn để đời.
Nhờ kiếp trước cúng dường Người,
Sinh ra đều được vào nơi sang giàu.
Gieo nhân ác, thiện từ lâu,
Quả nay xấu, tốt theo nhau hiện về.
Chúng sinh đắm mãi tham mê
Nên thân, khẩu, ý: ba bề sóng xô.
Một khi thoát chốn mê đồ,
Quả nhân như thoảng giấc hồ phủi xong.
Kìa ai nhân quả xoay vòng,
Hãy coi như bọt trên sông rì rào.
Có, không: chỉ giấc mơ đào,
Cứu người cõi lửa ra vào ngại chi.”
Nghe qua như tỉnh mê si,
Người trong pháp hội bốn bề lặng yên.
Như vừng đông thoắt hiện lên
Bao nhiêu sương bụi quanh miền vừa tan.
Dường trong ánh mắt dịu dàng
Là triêu dương dục trăm đàng nở hoa.
Trên đây, chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn những trang thơ đầy ấn tượng của nhà thơ Phạm Thiên Thư. Đây là những chiêm nghiệm quý giá được nhà thơ đưa vào trong thơ dành tặng cho các bạn.