Nhắc đến nhà thơ Tế Hanh, chúng ta liền nghĩ ngay đến những trang thơ dịch vang danh của ông. Đó chính là một niềm đam mê mãnh liệt đồng thời cùng bộc lộ rõ khả năng sáng tác cùng độ am hiểu ngôn ngữ của ông. Những thi phẩm dịch không chỉ đặc sắc mà góp phần làm phong phú nền văn học thơ ca nước nhà.
Mẹ tôi Anyám
A bögrét két kezébe fogta,
úgy estefelé egy vasárnap
csöndesen elmosolyodott
s ült egy kicsit a félhomályban –
Kis lábaskában hazahozta
kegyelmeséktől vacsoráját,
lefeküdtünk és eltünődtem,
hogy ők egész fazékkal esznek –
Anyám volt, apró, korán meghalt,
mert a mosónők korán halnak,
a cipeléstől reszket lábuk
és fejük fáj a vasalástól –
S mert hegyvidéknek ott a szennyes!
Idegnyugtató felhőjáték
a gőz s levegőváltozásul
a mosónőnek ott a padlás –
Látom, megáll a vasalóval.
Törékeny termetét a tőke
megtörte, mindíg keskenyebb lett –
gondoljátok meg, proletárok –
A mosástól kicsit meggörnyedt,
én nem tudtam, hogy ifjú asszony,
álmában tiszta kötényt hordott,
a postás olyankor köszönt néki –
Dịch
Tôi thấy mẹ hai tay cầm chén
Một ngày chủ nhật bắt đầu đêm
Mẹ cười mỉm, cái cười đau khổ
Trong bóng chiều hôm mẹ lặng im
Mẹ đem về từ nhà ông lớn
Một đĩa đồ ăn – đấy bữa cơm!
Lên giường chúng tôi nằm suy nghĩ
Bọn giàu ăn cả một mâm ngon
Mẹ tôi đấy, mong manh chết yểu
Những người thợ giặt sống lâu đâu
Thân run dưới đống áo quần nặng
Cái bàn là qua lại mòn đầu
Hơi bốc như một làn khói toả
Dơ nhớp chồng lên đống áo quần
Mỗi lần muốn đổi thay không khí
Những người thợ giặt bước lên tầng
Tay cầm bàn là, mẹ héo hắt
Tấm thân gầy yếu càng rã rời
Mẹ bị đồng tiền tư bản giết
Nhớ lấy điều này, vô sản ơi!
Mẹ đã bị đói nghèo mòn mỏi
Tôi biết đâu mẹ trẻ đẹp kia mà
Trong mơ mẹ bận tấm áo mới
Người đưa thư chào mẹ mỗi lần qua
Nhớ Ady Ady emlékezete
Meghalt? Hát akkor mért ölik naponta
szóval, tettel és hallgatással is?
Mért békitik a símák alattomba’
lány-duzzogássá haragvásait?
Földön a magyar és földben a költő,
dühödt markába rögöket szorit,
melléről égre libbent föl a felhő,
de tovább vívja forradalmait.
A televény titokzatos honában
izgat tovább, nem nyugszik, nem feled.
Ezer holdon kiált és haragjában
szeleket űz a Hortobágy felett.
Szeleket, melyek úri passzióból
a begyüjtött kis szénát szétszedik
s a sülyedt falun fölkapják a hóból
Dózsa népének zsuppfedeleit.
Teste a földé. Földmívesé lelke,
ezért koppan a kapa néhanap.
Sírja három millió koldus telke,
hol házat épit, vet majd és arat.
Verse törvény és édes ritmusában
kő hull s a kastély ablaka zörög, –
eke hasit barázdát uj husában,
mert virágzás, mert élet és örök.
Dịch
Nhà thơ đã chết? Sao hàng ngày còn bị giết
Bằng những lời, những hành động, với sự im lặng cố tình
Hỡi những bọn công chức giả, các anh
Muốn làm nhạt nhẽo những hờn căm chính đáng
Người dân Hung ngã rồi, và nhà thơ không còn sống
Tay anh còn nắm hòn đất thiết tha
Từ ngực anh mây bay tận trời xa
Anh vẫn tiếp tục đấu tranh cách mạng
Trong đất đen thi sĩ vẫn là người
Không hề biết lãng quên hay yên nghỉ
Tiếng anh qua từng không như xé
Đuổi gió kia trên xứ sở yêu thân
Những trận gió như bọn quý phái cường quyền
Tung cỏ tranh của dân lành lượm lặt
Và trong xóm làng chôn vùi dưới tuyết
Giật trộm những mái nhà của dân chúng Dôsa
Thân anh nằm và hồn anh trăn trở
Đấy cái cày đôi lúc cũng vang lên
Mộ anh là xứ sở cho ba triệu kẻ nghèo hèn
Ở đó sẽ mọc lên mùa màng no đủ
Thơ anh là định luật trong điệu vần đá đổ
Người ta nghe cửa kính lâu đài rung
Lưỡi cày trong thịt da anh rạch những con đường
anh là cái gì ra hoa, anh là cuộc đời bất tận
Thơ József Attila / NXB Văn Hoá – 1963
Những cây keo Ákácokhoz
Száz göbbedő odvas falunkba’
homokot kötözni magunkba’
ákácok, vigyázzunk magunkra! –
az úri szélben ez a föladat.
Zizegni minden bizalomra
keserülő e marxi munka,
de kössünk, kössünk lágyan zsongva,
a homok elfut, a föld megmarad.
Törzs vagyok-e, vagy már csak torzsa?
Nem sors az egyes ember sorsa!
Fogom én, lám kötöm ujjongva,
a jó fa zúg, az édes táj dagad, –
Recseg az ég odvas falunkba’,
csikorogva hordja halomba
tört águnkat, csörög a lombja, –
de meleg földet fogunk föld alatt.
Dịch
Giữa trăm xóm thôn ta gân guốc
Hỡi những cây keo hãy sáng suốt
Giữ cho đất cát đừng bay xa
Theo gió phong kiến cường quyền, ấy nhiệm vụ chúng ta
Chúng ta rì rào trong gió thổi
Công việc người Mác-xít nhọc nhằn sao
Cát có bay, đất luôn giữ vững
Trong tiếng thì thầm ta giữ đất lại nào
Số phận thật, không thể nào hiu quạnh
Ta là cây hay một khúc gỗ thường?
Ta giữ cát làm cho cát chắc
Cây rung rung nhựa đất trào lên
Cơn giông gầm trên xóm làng rừng núi
Gió thét gào bẻ gẫy cành cây
Nhưng chúng ta vẫn đứng ở đây
Chân bám rễ sâu trong đất
Những người theo chủ nghĩa xã hội
Le a kapitalizmussal! Hatalmat, húst a dolgozóknak!…
A tőke szennyében gázolunk, kedves fegyverünk böködi tomporunkat –
Böködj, böködj csak szüntelenül, kedves fegyverünk,
hadd tudjuk meg újra és újra, hogy véletlenül, tusa nélkül
csatát nem nyerünk.
Nem sietünk, erősek vagyunk, rengeteg az elevenünk, a halottunk,
tanácsot állunk a dombon, melyre pincéből, bányából,
kubikos gödörből feljutottunk –
viszi az idő a ködöt, tisztán meglátni csúcsainkat.
Viszi a ködöt az idő s az időt mi hoztuk magunkkal,
hoztuk harcunkkal, tartalék nyomorunkkal,
a kenyérrel, mely megpenészedett, amíg a munkás megszeghette,
a kásával, mely megdohosodott, amíg a munkás megfőzhette,
a tejjel, amely megsavanyodott, amíg a munkás köcsögébe belecsobbant,
a csókkal, amelyből cafraság lett, amíg a munkás fiatalába beledobbant,
a házzal, amelyből omladék lett, amíg a munkás beleköltözött,
a ruhával, amelyből rongy lett, amíg a munkás beleöltözött,
a szabadsággal, mely elnyomás lett, amíg a munkás megszületett,
a bőrszivarral, mely bagó lett, amíg a munkás felnövekedett, – –
a tőkével, mely munka lesz,
míg megnő az inas
s kalapácsával odavág
világ!
ahol a legfehérebben
izzik a vas!…
Vers, eredj, légy osztályharcos! a tömeggel együtt majd felszállsz!…
Te délre mégy, te nyugatra, én pedig északra, Elvtárs!
Dịch
Đả đảo chủ nghĩa tư bản, hãy giao bánh mỳ và chính quyền cho những người lao động
Chúng ta ngụp lặn trong nước bẩn đồng tiền
Vũ khí thân yêu kêu gọi chúng ta
Thúc giục đi hỡi vũ khí thiết tha
Phải nhắc chúng ta không có đấu tranh thì không thắng được
Từng bước chắc nịch chúng ta đi
Chúng ta có đoàn quân những người còn và những người đã mất
Từ dưới đất, từ hầm mỏ, chúng ta đến đây cùng hội nghị trên đồi
Thời đại cuốn bức màn sương, rừng núi sáng tươi
Thời đại cuốn bức màn sương, thời đại với ta là gánh nặng
Với cái nghèo đeo đẳng
Với bánh mỳ hôi trước lúc người thợ dùng
Với khoai thối trước khi đun
Với sữa trở mùi trước khi vào tách
Với cái hôn trước khi hôn không còn trinh bạch
Với cái nhà trước khi vào đã vẹo xiêu
Với áo quần chưa mặc đã tiêu điều
Với cái tự do, anh chưa sinh, đã thành áp bức
Với điếu thuốc tàn trước khi anh hút
Với đồng tiền trở thành sức lao động trước khi anh thợ nên nghề
Và anh nện từng nhát búa
Thế giới ơi!
Nơi miếng sắt
sắp nung trên lửa
Thơ ta ơi, với quần chúng hoà vào, hãy tham gia vào cuộc đấu tranh giai cấp
Đồng chí ơi, hãy xuống phương nam, tôi sẽ lên phương Bắc
Ru Ringató
Holott náddal ringat,
holott csobogással,
kékellő derűvel,
tavi csókolással.
Lehet, hogy szerelme
földerül majd mással,
de az is ringassa
ilyen ringatással.
Dịch
Xem kìa người đẹp ru tôi
Khác nào hồ nọ ru hời khóm lau.
Trong khi xanh ngắt trời cao
Chiếc hôn gửi xuống qua màu nước xanh.
Ngày kia, có lẽ mối tình
Một người khác nữa nàng dành cho chăng
Người ta sẽ lại ru nàng
Như nàng có lúc dịu dàng ru tôi.
Sinh nhật tôi Születésnapomra
Harminckét éves lettem én –
meglepetés e költemény
csecse
becse:
ajándék, mellyel meglepem
e kávéházi szegleten
magam
magam.
Harminckét évem elszelelt
s még havi kétszáz sose telt.
Az ám,
Hazám!
Lehettem volna oktató,
nem ily töltőtoll koptató
szegény
legény.
De nem lettem, mert Szegeden
eltanácsolt az egyetem
fura
ura.
Intelme gyorsan, nyersen ért
a “Nincsen apám” versemért,
a hont
kivont
szablyával óvta ellenem.
Ideidézi szellemem
hevét
s nevét:
“Ön, amig szóból értek én,
nem lesz tanár e féltekén” –
gagyog
s ragyog.
Ha örül Horger Antal úr,
hogy költőnk nem nyelvtant tanul,
sekély
e kéj –
Én egész népemet fogom
nem középiskolás fokon
taní-
tani!
Dịch
Ba hai tuổi hôm nay
Tôi tự tặng quà này
Cho mình
Kinh ngạc
Trên bàn tiệm cà phê
Một món quà ra vẻ
Một bài
Thơ nhỏ
Ba hai tuổi sau lưng
Mà mỗi tháng không được hai trăm
Đó là
Thực tế
Nếu được làm giáo sư triết học
Đã khỏi mòn bao ngòi bút
Nhưng vẫn thiếu
Bánh ăn
Ở trường Đại học kia
Tôi lại bị tống cổ
Bởi những ngài
Lụ khụ
Bài “Trái tim trong trắng”
Là một đòn cay đắng
Như lưỡi gươm đưa
Bài ca hùng tráng
Nào Chúa trời, Tổ quốc
Họ hung hăng hết sức
Một tràng
Diễn văn
“Tôi còn sống không để
Anh làm giáo sư như thế”
Chúng sủa
Chúng gào
Mặc các ngài, nhà thơ
Đã đi tự bao giờ
Mỗi người
Mỗi ngả
Có bằng cấp hay không
Toi dạy cho toàn dân
Không cần
Các cụ!
Tháng ba Március
1
Langy, permeteg eső szemerkél,
új búza pelyhe ütközik.
Kéményre gólya s a levert tél
jeges csucsokra költözik.
Zöld robbanásokkal kitört
a kikeleti víg erőszak.
Asztalos műhelye előtt
remény legyint meg, friss fenyőszag.
Mit ír a hirlap? Dúl a banda
Spanyolhonban és fosztogat;
Kínában elűzi egy bamba
tábornok a parasztokat
kis telkükről. Had fenyeget,
vérben áznak a tiszta vásznak.
Kínozzák a szegényeket.
Hadi uszítók hadonásznak.
Boldog vagyok: gyermek a lelkem,
Flóra szeret. S lám, álnokul,
meztelen, szép szerelmünk ellen
tankkal, vasakkal fölvonul
az ember alja. Megriaszt
a buzgóság e söpredékben.
S csak magunkból nyerek vigaszt,
erőt az élet érdekében.
2
Zsoldos a férfi, a nő szajha,
szivüket el nem érhetem.
Gonoszságuk is fel van fujva,
mégis féltem az életem.
Hisz nincs egyebem e kivül.
Számol ezzel a gondos elme.
A megbántott Föld ha kihül,
ég Flórám és szivem szerelme.
Mert mi teremtünk szép, okos lányt
és bátor, értelmes fiút,
ki őriz belőlünk egy foszlányt,
mint nap fényéből a Tejút, –
és ha csak pislog már a Nap,
sarjaink bízóan csacsogva
jó gépen tovább szállanak
a művelhető csillagokba.
Dịch
1
Mưa ấm đọng thành hơi
Trên bông tơ bụi lúa
Con cò vừa thấy đó
Mùa đông co lại rồi
Xuân mở một đường tươi
Hai bờ xanh nảy nở
Đón nắng căn nhà mở
Thơm hy vọng, vỏ bào
Báo nói Tây Ban Nha
Bị côn đồ cướp bóc
Trung Hoa tên tướng cướp
Đang đuổi những dân cày
Miếng vải nó chùi giày
Đã dầm trong vũng máu
Lời huênh hoang che giấu
Nỗi nghèo khổ nhân dân
Tôi như đứa trẻ con
Nàng yêu tôi. Tình đẹp
Chiến tranh khuấy lũ rác
Đến đe doạ chúng tôi
Chiếc lưỡi lê ganh đua
Với chiến xa hung dữ
Nhưng mà tôi chẳng sợ
Có sức mạnh hai tôi
2
Gái trai đều nhục nhã
Trái tim khép lại rồi
Những tim hèn nhát ơi
Ta lo và thương hại
Chỉ có đời ta đấy
Ta gìn giữ suốt đời
Khi tình rọi em ơi
Không gì nguôi lạnh được
Con gái ta ngoan đẹp
Con trai ta khoẻ lanh
Chúng hãy giữ vài phần
Cuộc đời ta sáng rực
Khi mặt trời sẽ nhạt
Nòi ánh sáng chúng ta
Sẽ vượt thuyền bao la
Đi tìm tinh tú mới
Tiếng hát người làm thuê
Hordunk vinnyogó kosarat,
kapálunk reszkető salátát,
vályognak dagasztunk sarat,
szabjuk a divathölgy ruháját,
fejtjük a sertés-oldal háját,
zsírt olvasztunk, libát tömünk,
s az est ha bontja lengő táját,
bérünk van, nincsen örömünk.
Hiába emelünk falat
és rakjuk sorsunk kaszárnyáját,
fiúnk uccán, üveg alatt
nézi csak építőkockáját
s ha lányunk babaruhácskáját
kéri – hisz szövetet szövünk –
összeszorítja puha száját –
bérünk van, nincsen örömünk.
Szemünk előtt csak szíj szalad,
csinálunk kocsit, hozzá pályát,
földben, föld fölött, föld alatt
elültetjük a világ fáját,
begyűjtjük a rét gabonáját
és még büszkék se lehetünk –
tűzbe vetik, vízbe dobálják.
Bérünk van, nincsen örömünk.
A krumpli úgy nő, ha kapálják!
Ott nincs hiba, hogy küzködünk,
nem az rágja az ember máját.
Bérünk van, nincsen örömünk.
Dịch
Chúng ta mang những giỏ nặng rĩ rền
Chúng ta cạo đất quanh vùng rau dã dượi
Chúng ta quét đường, quét bùn, rác rượi
Chúng ta may những áo đẹp xinh
Chúng ta xẻo những miếng thịt ngon lành
Ta rán mỡ và ta nhồi ngỗng
Khi như bức màn phất phơ, chiều xuống
Ta nhận phần lương mà không hề nhận phần vui
Chúng ta hoài công xây dựng cửa nhà
Xây dựng cái nhà tàn số kiếp
Con trai ta sẽ nhìn trò chơi kiến thiết
Ở ngoài đường, qua cửa kính hàng thôi
Con gái ta muốn áo đẹp bọc đồ chơi
Vì ta dệt biết bao nhiêu len lụa
Mơ ước ấy chỉ nằm trên đôi môi mím lại
Ta nhận phần lương mà không hề nhận phần vui
Những dây da quay trước mắt không thôi
Ta đúc bánh xe, ta rèn đường sắt
Trên đất, dưới hầm, trong đá cát
Ta trồng cây khắp thế giới bao la
Ta gặt mùa, nhưng hạt lúa, vinh dự của ta
Họ đem đốt, họ nhận chìm dưới bể
Đến nỗi công lao khổ của ta thành vô nghĩa
Ta nhận phần lương mà không hề nhận phần vui
Khoai mọc tốt tươi miễn có người chăm
Sự cố gắng không làm tim ta đau khổ
Gánh nặng làm tổn thương ta phải đâu nơi đó
Ta nhận phần lương mà không hề nhận phần vui
Tổ quốc Hazám
S mégis, magyarnak számkivetve,
lelkem sikoltva megriad –
édes Hazám, fogadj szivedbe,
hadd legyek hűséges fiad!
Totyogjon, aki buksi medve
láncon – nekem ezt nem szabad!
Költő vagyok – szólj ügyészedre,
ki ne tépje a tollamat!
Adtál földmívest a tengernek,
adj emberséget az embernek.
Adj magyarságot a magyarnak,
hogy mi ne legyünk német gyarmat.
Hadd írjak szépet, jót – nekem
add meg boldogabb énekem!
Dịch
Tâm hồn Hung của tôi như biệt xứ
Tôi chỉ còn mong mỏi một điều
Hãy đón tôi vào lòng – ôi xứ sở
Cho tôi thành đứa trẻ đáng tin yêu
Tôi không thể nào chịu cam tâm số phận
Con gấu kia để họ lột da mình
Tôi là nhà thơ. Hỡi ngài toà án
Đừng cướp của tôi ngòi bút đấu tranh
Hãy cho loài người lương tri con người
Cho nhân dân Hung
Hồn thiêng đất nước
Đừng để nước Hung thành thuộc địa Đức
Hãy để ta viết muôn điều đẹp tốt
Chúc thêm nhiều may mắn thơ ta ơi!
Tôi chỉ cần một bạn đọc
Csak az olvassa versemet,
ki ismer engem és szeret,
mivel a semmiben hajóz
s hogy mi lesz, tudja, mint a jós,
mert álmaiban megjelent
emberi formában a csend
s szivében néha elidőz
a tigris meg a szelid őz.
Dịch
Tôi chỉ cần một bạn đọc, đoc thơ tôi
Đấy là người hiểu tôi, và yêu tôi nữa
Cũng như tôi trong khoảng trống chơi vơi
Thấy tương lai hiện lên trong hiện tại
Và chỉ người đó mới có thể với lòng kiên nhẫn
Tạo một hình người cho im lặng
Trong người kia cũng như trong tôi
Có con hươu và con cọp sánh đôi.
Tuyên ngôn về thơ Ars poetica
Németh Andornak
Költő vagyok – mit érdekelne
engem a költészet maga?
Nem volna szép, ha égre kelne
az éji folyó csillaga.
Az idő lassan elszivárog,
nem lógok a mesék tején,
hörpintek valódi világot,
habzó éggel a tetején.
Szép a forrás – fürödni abban!
A nyugalom, a remegés
egymást öleli s kél a habban
kecsesen okos csevegés.
Mocskolván magukat szegyig,
koholt képekkel és szeszekkel
mímeljen mámort mindegyik.
Én túllépek e mai kocsmán,
az értelemig és tovább!
Szabad ésszel nem adom ocsmány
módon a szolga ostobát.
Ehess, ihass, ölelhess, alhass!
A mindenséggel mérd magad!
Sziszegve se szolgálok aljas,
nyomorító hatalmakat.
Nincs alku – én hadd legyek boldog!
Másként akárki meggyaláz
s megjelölnek pirosló foltok,
elissza nedveim a láz.
Én nem fogom be pörös számat.
A tudásnak teszek panaszt.
Rám tekint, pártfogón, e század:
rám gondol, szántván, a paraszt;
engem sejdít a munkás teste
két merev mozdulat között;
rám vár a mozi előtt este
suhanc, a rosszul öltözött.
S hol táborokba gyűlt bitangok
verseim rendjét üldözik,
fölindulnak testvéri tankok
szertedübögni rímeit.
Én mondom: Még nem nagy az ember.
De képzeli, hát szertelen.
Kisérje két szülője szemmel:
a szellem és a szerelem!
Dịch
Tặng Németh Andornak
Làm thơ tôi không thiết
Thơ phải nghĩa là gì
Ngôi sao nước cuốn đi
Không hiện trên trời được
Thời gian không trở lại
Truyện hoang đường cạn sữa
Tôi uống thực tế đời
Như rượu phản chiếu trời
Tắm đi – suối rất đẹp
Nước sôi hay nước im
Như hoà hợp nhau lại
Cảm xúc và có duyên
Mặc các nhà thơ khác
Ồn ào rượu say sưa
Muốn ngập mình trong ấy
Bao cảm xúc giả vờ
Tôi không làm như thế
Theo lẽ phải tôi đi
Tôi tự do chẳng muốn
Bắt chước bọn ngu si
Tôi uống, ăn, yêu, ngủ
Đo theo tầm vũ trụ
Bọn áp bức cường quyền
Tôi không hề quỳ luỵ
Tôi muốn tìm hạnh phúc
Mặc họ làm gì tôi
Dầu thân tôi thương tích
Dầu máu tôi hết sôi
Ai cấm tiếng tôi kêu?
Tôi chỉ tin lẽ phải
Thế kỷ ủng hộ tôi
Dân cày nghĩ tới tôi
Từng cử chỉ người thợ
Với tôi cùng nhịp rung
Chờ tôi, một em bé
Trước cửa rạp chiều hôm
Trong khi bọn chó má
Muốn chà đạp thơ tôi
Những xe tăng đồng chí
Gieo thơ tôi vang trời
Con người chưa đủ lớn
Vẫn tin mình lớn rồi
Giúp nó như cha mẹ
Tình yêu, lẽ phải ơi!
Trên đây, chúng tôi đã cập nhật dành tặng cho bạn những thi phẩm dịch đặc sắc của nhà thơ Tế Hanh. Ông là một gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam cùng những thi phẩm đi cùng năm tháng gắn bó với nhiều thế hệ bạn đọc.