Nhà thơ Tế Hanh đã dùng không ít tâm huyết của mình để có dịch những thi phẩm nổi tiếng của những thi sĩ nước ngoài khác. Chùm thơ của ông đã bộc lộ lên được ngòi bút tài hoa cùng sự am hiểu ngôn ngữ sâu sắc của ông. Chính vì vậy mà ông được nhiều bạn đọc ngưỡng mộ và ca tụng.

Phục sầu kỳ 03 復愁其三

萬國尚戎馬,
故園今若何。
昔歸相識少,
早已戰場多。

Phục sầu kỳ 03

Vạn quốc thượng nhung mã,
Cố viên kim nhược hà.
Tích quy tương thức thiểu,
Tảo dĩ chiến trường đa.

Dịch nghĩa

Muôn nước vẫn còn lo việc quân
Vườn cũ nay ra sao rồi?
Trước kia trở về, người quen ít ỏi
Nay đã sớm có lắm cảnh sa trường

Dịch

Khắp nước còn binh lửa,
Ra sao giờ cố hương?
Xưa về bè bạn vắng,
Đây sớm thành chiến trường.

Bánh xe Колело

ВЪРТИ СЕ, ВЪРТИ СЕ, ту гладко и плавно,
ту вихрено, лудо, стремглаво,
от север на юг и от изток на запад,
през бури и слънце, през нощи и дни,
през наши и чужди сърца и съдби,
през радост и скърби, през смях и сълзи,
върти се, върти, колело на живота —
животът е устрем и вечно движение,
а още сме млади ний, още сме жадни,
и още сме тука, и още сме твои —
да няма застой, че застоят е смърт —
а дълго ще бъдем ний мъртви!

Dịch

Quay, quay bánh xe vòng đời
quay theo điệu mau và điệu chậm
từ bắc đến nam, từ đông đến tây
trong bão, trong nắng, qua đêm, qua ngày
lăn trên những trái tim và số phận
qua nỗi vui buồn, qua nụ cười nước mắt
quay quay bánh xe cuộc đời
đời là vươn lên, luôn luôn chuyển động
chúng ta còn trẻ, ta còn mê say
chúng ta của nhau, chúng ta còn đây
đừng dừng lại, dừng lại là chết
chúng ta sẽ chết nhưng hãy còn lâu

Cây sáo ngày qua Старинна флейта

Избухна вятъра на младостта,
наду
платната,
понесе по мътната вода на Дунава
нагоре –
против течението на света.
И пълноводието на страстта
заля съмненията,
и моята душа се пак разтвори
за светлината.
Като факир
засвири флейтата на любовта
и усмири
отровните змии на мисълта
и угризенията
и ги превърна на венци от цвете,
изплетени
пред твоите нозе.
Заспете,
слепи прилепи на самотата,
долитнали в ноща.
Заспете,
вълци-хищници на бедността,
издебнали в мъглата.
Заспете, грижи,
лепкави влечуги черноземни,
в студенокръвните си лапи взели
и обичта към ближния.
Това е песента на птичката, запяла
в разцъфналия храст,
и екналия рев на лъва, разлюлял
тропическия лес.
Това са дивните извивки на кавала
под клонестия брест
и истинския глас на всекиго от нас,
поне веднъж в света
това е любовта!

Dịch

Gió tuổi trẻ
nổi lên
thổi qua
phồng ra
những cánh buồm
và đưa ta
trên
ngược dòng mọi người
Con sông tràn trề say sưa
nhận chìm mọi nghi ngờ
và lần nữa hồn ta
mở ra ánh sáng
Như một nhà ảo thuật
Cây sáo tình yêu bắt đầu dạo khúc
và làm dịu đi
những ý nghĩ như con rắn độc
những hối hận đã qua
và suy nghĩ hối tiếc thoát ra
những đoá hoa
đặt trước
chân dung
Ngủ đi
những con dơi mù loà của quạnh hiu trong đêm tối đến
Ngủ đi
Những con sói bạo tàn của đói nghèo lẻn vào dữ tợn trong sương
Đó là tiếng chim ca
trong lùm cây nở hoa
tiếng gầm sư tử rung chuyển
khu rừng xa nhiệt đới
đấy là những làn điệu thần tiên cây sáo người chăn cừu
dưới bóng râm êm mát
và tiếng nói chân chính của mỗi chúng ta
đã thốt ra ít nhất một lần trong đời
tiếng của tình yêu

Những đêm ấy Нощи

Като в заключени градини
недосегаеми овощия –
тежат, искрят през тези нощи
звездите в небесата сини.
Недвижни, сякаш заковани,
стоят рибарските гемии.
Морето с тиха ласка мие
несебърските тъмни рани.
И някаква въздишка блика
и лъха рухналите къщи.
И древността те в миг обгръща.
незнайна, тайнствена, велика.

Dịch

Như những quả bị cấm
Trong khu vườn kín rào
sáng lên và nặng trĩu
vòm xanh những vì sao
Lặng im như đóng đinh
sắp hàng thuyền đánh cá
Biển lau như vuốt ve
những vết thương thành phố
Hơi thở dài len lỏi
Giữa những nhà điêu tàn
quá khứ bỗng bao bọc
huyền bí và huy hoàng

Quyển sách Книга

Ти с болка влагаш в нея всичко, що обичаш,
от радостта и любовта крадеш,
живота и съня ти в нея се пресичат
и палят своята последна свещ.
Над нея нощем бдиш – присъден и невинен –
с обрулено от този свят лице,
така над нея ще заспи завинаги
и твоето раздадено сърце.
А те ще попрелистят тази малка книжка,
преди спокойно вечер да заспят,
и в полусън ще промълвят, въздишайки:
“Каква съдба, какъв завиден път!…”

Dịch

Anh đau đớn để cả tình yêu trong đó
Vì nó, anh hy sinh cả nỗi vui và mối tình anh
cuộc đời anh, giấc mơ anh gặp nhau trong sách
và đốt lên ngọn nến cuối của mình
Đêm anh thức trên trang giấy – tội tội ngây thơ
nét mặt bị thế gian tàn phá
và như thế vĩnh viễn nằm im
trái tim anh đã phát ban cho tất cả
Và họ, họ dở từng trang sách nhỏ
đêm về trước lúc ngủ bình yên
trong giấc mơ chập chờn, thầm thì như than thở
cuộc đời thế kia, sự nghiệp thế kia thật đáng khát thèm

Bài ca Chanson

Les meneurs du jeu
Ont voulu venir
Pour nous étrangler
Rien qu’avec leurs doigts,
Pour nous échancrer
Rien qu’avec leur poigne,
Pour nous dépecer
Rien qu’avec leurs yeux
On n’a pas prié
On a travaillé
Souffre qui pourra
Les voilà broyes

Dịch

Chúng nó
muốn đến đây
Để bóp họng chúng ta
với ngón tay của chúng
Để khoét chúng ta
với nắm tay của chúng
Để xé chúng ta
với cặp mắt của chúng
Không ai cầu xin
mà chỉ hành động
Hãy nén nỗi đau
Kìa chúng đã bị nghiền nát

Xứ Bretagne Bretagne

Il y a beaucoup de vaisselle,
Des morceaux blancs sur le bois cassé,
Des morceaux de bol, des morceaux d’assiette
Et quelques dents de mon enfant
Sur un morceau de bol blanc
Mon mari aussi a fini
Vers la prairie, les bras levés,
Il est parti, il a fini
Il y a tant de morceaux blancs,
De la vaisselle, de la cervelle
Et quelques dents de mon enfant;
Il y a beaucoup de bols blancs,
Des yeux, des poings, des hurlements,
Beaucoup de rire et tant de sang
Qui ont quitté les innocents.

Dịch

Có rất nhiều bát đĩa
Những mảnh trắng trên tấm ván vỡ
Những mảnh bát mảnh đĩa
Vài cái răng con tôi
Trên một mảnh bát trắng
Và chồng tôi cũng biến đi
Trên một cánh đồng, hai tay giơ lên
Anh ra đi mất tích
Có bao nhiêu mảnh
Của bát đĩa, óc đầu
Và vài cái răng trẻ em
Có rất nhiều bát trắng
Những cặp mắt, nắm tay tiếng khóc
Bao nhiêu nụ cười nước mắt
Đã từ giã những người vô tội hiền lành

Con đường số Một

Грубей, чем любая дерюга,
прочней буйволиных спин
ведёт на Сайгон дорога –
дорога номер один.

Ничьи не блистают наряды,
не видно вздыхающих пар,
а в кузовах едут снаряды,
прикрытые ветками пальм.

Дорога похожа на сводку
о шрамах и рамах земли.
Здесь надо шептать во всю глотку,
чтоб тайны до слуха дошли.

Дорога устала от бойни,
оглохла она от стрельбы.
В обочины вбитые бомбы –
её верстовые столбы.

Дорогу бомбить не отвыкли,
но дух у дороги не слаб.
Воронки – как формы отливки
крестьянских соломенных шляп.

Здесь жижа челомкает жижу,
невесело ямы острят,
но эта дорога мне ближе,
чем фрачный асфальт автострад.

Булонского леса аллеи,
баюкая сытых коней,
глядят на неё – не жалея,
а втайне завидуя ей.

Расправиться с нею попробуй!
Особой полны красоты
искромсанные со злобой,
но сросшиеся мосты.

А то, что здесь пули-дурёхи
и столько предательских мин,
лишь признак, что ты на дороге –
дороге номер один.

Путей у поэзии много
среди и вершин, и долин,
но есть у неё дорога –
дорога номер один.

В поэзии есть и тропинки,
где мирные шляпки опят.
Там, правда, бывают дробинки,
но всё-таки так не бомбят.

Тебя, Маяковский, любили,
но с ханжеством чистеньких бонн
насмешками подло бомбили –
ещё до игольчатых бомб.

Но всё-таки не искривилась
дорога твоя под огнём.
На каждую несправедливость
ведёт она, как на Сайгон.

И я, твой наследник далёкий,
хотел бы до поздних седин
остаться поэтом дороги –
дороги помер один.

Dịch

Cứng hơn vải may buồm
Chắc hơn tấm lưng trâu
Con đường vào Sài Gòn
Là con đường số Một
Không thấy người mặc đẹp
Không thấy đôi nhân tình
Chỉ thấy xe đạn pháo
Dưới tàn lá cây xanh
Giống như một bản tin
Ghi vết thương còn đó
Ở đây tuy nói nhỏ
Mà để lắm người nghe
Đường mệt vì nhiều bom
Điếc vì nghe súng nổ
Những mảnh bom cắm sâu
Như những mốc cây số
Bọn giặc còn ném bom
Nhưng con đường vững mạnh
Hố bom làm cái khuôn
Đúc mũ, nón nông dân
Những cục bùn dính lại
Chỗ lõm đùa không vui
Nhưng tôi thấy gần tôi
Hơn những đường bóng nhựa
Con đường rừng Boulogne
Ru bước chân ngựa mập
Nhìn con đường số Một
Với tất cả ghét ghen
Giặc muốn đường đầu hàng
Nhưng những cầu phá nát
Bây giờ đứng dậy rồi
Với bao nhiêu vẻ đẹp
Thấy dấu đạn ngu si
Hay dấu bom ngu ngốc
Bạn sẽ biết đang đi
Trên con đường số Một
Trong thơ có nhiều đường
Đi qua núi qua đồng
Nhưng chỉ có một đường
Là con đường số Một
Trong thơ nhiều đường nhỏ
Lượn giữa rừng hoa êm
Có viên đạn bắn chim
Nhưng không có bom ném
Ông Mai-a kính yêu
Bọn quý phái giả dối
Nện ông bằng giễu đùa
Ác hơn bom kim khí
Nhưng con đường của ông
Vẫn không hề quay lại
Tiến thẳng vào chính giữa
Như đường vào Sài Gòn
Tôi, trò nhỏ của ông
Cho đến khi bạc tóc
Vẫn muốn đi con đường
Là con đường số Một

Trời mưa

Trời mưa – đẹp quá. Yêu em thế
Chúng ta trong nhà nhìn trời mưa
Chúng ta tự mê nhau em nhé
Cùng hưởng chung dư vị cuối mùa
Trời mưa. Những tắc-xi qua lại
Chiếc ô-tô buýt nặng nề lăn
Trên sông Xen những thuyền vận tải
Tiếng rì rầm…chẳng thể nào nghe
Đẹp quá: Trời mưa – Ta theo dõi
Tiếng mưa từng giọt nhỏ rì rào
Đập vào cửa kính như kêu gọi
Em cười với ta quá ngọt ngào
Ta yêu em. Ôi! mưa như khóc
Tiếng nghẹn ngào chẳng thể nào nghe
Em sẽ xa ta giờ đã giục
Trong mắt em ta thấy trời mưa

Cầu Mirabeau Le pont Mirabeau

Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Et nos amours
Faut-il qu’il m’en souvienne
La joie venait toujours après la peine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
L’amour s’en va comme cette eau courante
L’amour s’en va
Comme la vie est lente
Et comme l’Espérance est violente
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Passent les jours et passent les semaines
Ni temps passé
Ni les amours reviennent
Sous le pont Mirabeau coule la Seine
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure.

Dịch

Dưới cầu Miarabô chảy qua sông Xen
Và tình yêu nữa
Có nên nhớ lại không em
Sau nỗi đau là nỗi vui êm đềm
Giờ đã điểm, đêm đã tới
Ngày đi qua, tôi ở lại
Mặt nhìn mặt, tay em trong tay tôi
Chúng ta cùng thấy
Dưới cầu tay ta chảy trôi
Làn sóng lờ đờ những cái nhìn muôn đời
Giừo đã điểm, đêm đã tới
Ngày đi qua, tôi ở lại
Tình yêu đi biệt như nước chảy liền
Tình yêu đi biệt
Ôi cuộc đời sao mà triền miên
Và hy vọng sao mà cuồng điên
Giờ đã điểm, đêm đã tới
Ngày đi qua, tôi ở lại
Ngày đi liền và tuần lễ đi liền
Không còn quá khứ
Và mối tình ta đâu em
Dưới cầu Mi-ra-bô chảy qua sông Xen
Giờ đã điểm, đêm đã tới
Ngày đi qua, tôi ở lại

Đám rước Cortège

Un vieillard en or avec une montre en deuil
Une reine de peine avec un homme d’Angleterre
Un maréchal d’écume avec une pipe en retraite
Un composileur de potence avec un gibier de musique
Un professeur de porcelaine avec un raccommodeur de philosophie
Un membre de la prostate avec une hypertrophie de l’Académie Francais

Dịch

Một cụ già bằng vàng với cái đồng hồ chịu tang
Một bà hoàng hậu lao tù với một con người nước Anh
Một viên tướng bốc khói với một cái điếu về hưu
Một soạn giả treo cổ với một tù phạm âm nhạc
Một giáo sư sành sứ và một người hàn gắn triết học
Một uỷ viên của bệnh tiền liệt tuyến và một sự sũng phù của Viện Hàn lâm Pháp.

Sonnet 07

Bois cette tasse de ténèbres, et puis dors.
Nous prendrons ta misère ainsi qu’une couronne
et nous la porterons aux jardins de la mort.
Alors toi, comme un somnambule qui frissonne,
te glissant par la porte où ne passe personne,
tu t’en iras cueillir le myrte aux rameaux d’or.
Son éclat et celui de la rouge anémone,
dans la nuit rajeunie, te guideront aux bords
de la vraie vie et du pur accomplissement.
Là les songes sont sûrs, terribles et puissants.
Par le bleu matinal d’un éternel demain
ils viendront tous à ta rencontre, âme guérie,
et tu reconnaîtras, se tenant par la main,
tes grandes sœurs: Amour, Liberté, Poésie.

Dịch

Hãy uống cốc đêm này và hãy ngủ
Chúng tôi sẽ mang nỗi khổ của anh
Như một vòng hoa vào cõi mất
Còn anh như một kẻ trong mơ
Anh sẽ đi qua cái cửa chẳng ai qua
Anh bẻ cành cành cây đẹp nhất
Nó ánh lên như đoá hoa nhiều sắc
Trong cái đêm trẻ lại dẫn anh về
Cuộc đời thật và hoàn thành sứ mệnh
Ở nơi ấy ước mơ chín mùi đầy sức mạnh
Một buổi mai vĩnh viễn màu xanh
Họ sẽ đến gặp anh lành bệnh
Tay nắm trong tay và anh nhận ra
Những người chị lớn: Tình yêu – Tự do – Thơ ca

Anh ngủ sao? Dormez-vous ?

Réveillez-vous, le froid est déjà à nos portes
et la lune se ferme comme une bouche morte.
Réveillez-vous, à votre porte on a posé
une épée, comme un enfant abandonné.
Réveillez-vous, la mort est déjà à cheval
on entend son galop dans l’écho du journal.
Réveillez-vous, hommes au gant d’acier
la nuit fait ses adieux au fond de la vallée.
Réveillez-vous, c’est moi fantôme des radios
je vous prête ma voix qui frappe dans le dos.
Réveillez-vous c’est l’heure où les lions vont boire
l’heure aiguë se referme en ses ailes d’ivoire.
Réveillez-vous, l’echelle est prête sur le mur
et la lune se lève au fond de vos armures
Réveillez-vous vieille colère des fagots
chienne mal réveillée qui tire sur l’anneau.
Réveillez-vous, rage énorme des armoires
tremblement du plancher, bruits légers de l’espoir.
Réveillez-vous Seigneur ou vous serez mangé
Mon Dieu qui m’éclairez jusqu’au bout de l’allée.

Dịch

Thức dậy đi, cái lạnh gõ ngoài cửa
mảnh trăng khép như miệng người khép lại
Thức dậy đi, ngoài cửa có thanh gươm
Người ta để rơi như đứa trẻ bị quên
Thức dậy đi, cái chết lên yên lướt tới
Người ta nghe tiếng ngựa phi trong tiếng vang tờ báo
Thức dậy đi, hỡi người bao tay thép đang ghì
Trong thung lũng sâu đêm đã ra đi
Thức dậy đi, tôi là bóng ma của rađiô kêu gọi
Tôi cho mượn tiếng tôi đập sau lưng anh đó
Thức dậy đi, đã đến giờ những mãnh sư đến uống
Giờ quyết liệt khép lại trong đôi cánh ngà
Thức dậy đi, chiếc thang đã bắc vào tường
Và trăng đã lên trong lòng vũ khí anh mang
Thức dậy đi, lửa hờn lâu ấp ủ
Chó dở giấc kéo giật chiếc vòng đeo
Thức dậy đi, căm giận trong tủ ngăn
Trần nhà rung rinh và hy vọng đang nhen
Thức dậy đi, nếu không anh sẽ chết
Ánh sáng suốt cung đường rọi khắp

Viết trên tường Ecrit sur le mur

J’appartiens au silence,
à l’ombre de ma voix,
aux murs nus de la Foi,
au pain dur de la France.
J’appartiens au retour,
à la porte fermée,
qui frappe dans la cour,
qui fredonne la paix.
L’aube nourit la terre,
A la source du feu.
J’appartiens au ciel bleu
Qui souffre sur la pierre.

Dịch

Tôi là của lặng im
của tiếng tôi toả mát
của mảnh tường lòng Tin
của bánh mì nước Pháp
Tôi là của ngày về
của cửa song khoá chặt
Có ai gọi ngoài sân
hoà bình ai đang nhắc?
Bình minh nuôi trái đất
từ ngọn lửa ban đầu
Tôi là của trời cao
đang đau trên phiến đá

Tế Hanh là một dịch giả xuất sắc của nền văn học nước nhà mà còn nổi tiếng ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc trong và ngoài nước. Hãy đón xem bài viết này và cùng cảm nhận sự tài năng của ông nhé! Mời các bạn đón xem phần 3 cùng những trang thơ tuyệt vời nhất của Tế Hanh!