Nguyễn Xuân Sanh  là nhà thơ, dịch giả, sinh ngày 16-11-1920. Ông được biết đến là một nhà thơ đồng thời là một dịch giả nổi tiếng của làng thơ ca Việt Nam. Ông xuất thân tại một vùng quê nghèo miền trung nhưng lại cất tiếng khóc chào đời tại một miền sương mù bao phủ. Ông vang danh cùng những bài thơ tuyệt vời được trao tặng giải thưởng ngoại hạng của Hội văn nghệ Việt Nam 1951-1952 cấp cho tập thể các nhà văn đã viết về anh hùng và chiến sĩ thi đua (tác giả viết về anh hùng Trần Đại Nghĩa). Ngay bây giờ, hãy cùng tapchivannghe.com khám phá những thi phẩm dịch xuất sắc của ông nhé!

Năm khúc thơ cho Thoreau

Ännu en har lämnat den tunga stadens
ring av glupska stenar. Kristallklart salt är
vattnet som slår samman kring alla sanna
flyktingars huvud.
I en långsam virvel har tystnad stigit
hit från jordens mitt, att slå rot och växa
och med yvig krona beskugga mannens
solvarma trappa.
Foten sparkar tanklöst en svamp. Ett åskmoln
växer stort vid randen. Likt kopparlurar
trädens krökta rötter ger ton och löven
skingras förskrämda.
Höstens vilda flykt är hans lätta kappa,
fladdrande tills åter ur frost och aska
lugna dagar kommit i flock och badar
klorna i källan.
Trodd av ingen går den som sett en geysir,
flytt från stenad brunn som Thoreau och vet att
så försvinna djupt i sitt inres grönska,
listig och hoppfull.

Dịch

Đây cũng là kẻ đã vượt bức tường thành đầy khát vọng của các đô thị nặng nề
Nước thì trong veo và mặn
khi nó đổ xuống đầu những kẻ bị lưu đày’
Bằng những đường vòng chậm rãi, sự thanh bình đã lên đến đây
nơi trung tâm trái đất, để bắt rễ, mọc lên
và bằng tán lá dày của nó phủ bóng cho cầu thang của con người được mặt trời sưởi ấm
Không hề có suy nghĩ gì, bàn chân vấp gặp một tai nấm
Một đám mây bụi lớn dần bên bờ. Như những chiếc kèn đồng
các cuộn rễ gập lại đã tỏ bày giọng điệu của cây và lá của nó tung bay, sợ hãi
Sự chạy trốn cuống cuồng của mùa thu chính là cái áo khoác nhẹ nhàng của nó
khi nó cuộn sóng cho đến lúc bằng một cuộc nổi dậy vô bờ bến, các ngày đêm thắm dịu hơn
phục sinh từ sương giá và từ tro than để đến tắm các móng vuốt nó trong nước hiền lành của suối khe
Và kẻ nào đã trông thấy một mạch nước phun mà mọi người đều không tin trước đó
đã thoát khỏi một giếng nước đầy như Thoreau từng làm
và anh ta biết tự vùi sâu vào bãi cây xanh nội tâm, yêu đời và láu lỉnh

Ngủ trưa Siesta

Stenenes pinse. Og med sprudende tunger…
Byen uden vægt i middagstimens rum.
Begravelse i sydende lys. Trommen der overdøver
den indelåste evigheds hamrende næver.
Ørnen stiger og stiger over de sovende.
Søvn hvormøllehjulet vendersig som tordenen.
Tramp fra hestenmed bindforøjnene.
Den indelåste evigheds hamrende næver.
De sovende hænger som lodder i tyrannernes ur.
Ørnen driver dødi solensstrømmende hvide fos.
Og genlydende i tiden–som iLazarus’ kiste
den indelåste evigheds hamrende næver

Dịch

Lễ Chúa hạ trần của các mỏm đá. Những tiếng nổ kêu lách tách…
Thành phố không trọng lượng trong không gian giữa trưa
Một lễ tang ở nghĩa địa trong ánh nắng chói chang
Một hồi trống lấp cảnh các nắm tay đưa kẻ qua đời vào vĩnh cửu
Con chim đại bàng bay lên cao bên trên những người đã yên giấc ngủ
Một giấc ngủ trong đó bánh xe cối xay gió trở thành giông tố
Nước phi của một con ngựa mà đôi mắt đã bị bịt che
Nhiều nắm tay đưa kẻ qua đời vào vĩnh cửu
Những người đã yên giấc ngủ đeo như những vật nặng đeo vào chiếc đồng hồ của các tên bạo chúa
Con chim đại bàng, chết, chuyển động trong các lớp sóng dòng sông mặt trời chói rực
Trong thời gian vang lên – như tự quan tài của Lazare
nhiều nắm tay đưa kẻ qua đời vào vĩnh cửu

Người được các bài hát trên các mái nhà đánh thức 

Morgon, majregn. Staden är ännu stilla
som en fäbod. Gatorna stilla. Och i
himlen mullrar blågrönt en flygplansmotor. –
Fönsteret är öppet.
Drömmen där den sovande ligger utsträckt
blir då genomskinlig. Han rör sig, börjar
treva efter uppmärksamhetens verktyg –
nästan i rymden.

Dịch

Sáng sớm, mưa tháng năm. Thành phố vẫn còn im lặng
như một ngôi nhà gỗ trên núi cao. Đường phố cũng còn như vậy
Trên trời một động cơ máy bay rống lên tiếng màu xanh màu xám
Cửa sổ nhà được mở ra
Giấc mơ trên đó người ngái ngủ nghỉ ngơi
là trong sáng. Con người cựa quậy
lần mò tìm điểm chú tâm
gần như cả trong không gian vô tận

Nhân nói về lịch sử

I
En dag i mars går jag ner till sjön och lyssnar.
Isen är lika blå som himlen. Den bryter upp under solen.
Solen som också viskar i en mikrofon under istäcket.
Det kluckar och jäser. Och någon tycks ruska ett lakan
långt ute.
Alltihop liknar Historien: vårt NU. Vi är nedsänkta,
vi lyssnar.
II
Konferenser som flygande öar så nära att störta…
Sedan: en lång darrande bro av kompromisser.
Där ska hela trafiken gå, under stjärnorna,
under de oföddas bleka ansikten,
utkastade i tomrummet, anonyma som risgryn.
III
Goethe reste i Afrika 1926 förklädd till Gide och såg allt.
Några ansikten blir tydligare av allt de får se efter döden.
När dagsnyheterna från Algeriet lästes upp
framträdde ett stort hus där alla fönster var mörklagda,
alla utom ett. Och där såg man Dreyfus`ansikte.
IV
Radikal och Reaktionär lever tillsammans som i ett
olyckligt äktenskap,
formade av varann, beroende av varann.
Men vi som är deras barn måste bryta oss loss.
Varje problem ropar på sitt eget språk.
Gå som en spårhund där sanningen trampade!
V
Ute i terrängen inte långt från bebyggelsen
ligger sedan månader en kvarglömd tidning, full av
händelser.
Den åldras genom nätter och dagar i regn och sol,
på väg att bli en planta, ett kålhuvud, på väg att förenas
med marken.
Liksom ett minne långsamt förvandlas till dig själv.
Här var jag nära att omkomm, ut
på fel sida av vägen. De mötande bilarna –
deras lyktor – kom nära.

Dịch

I
Một ngày tháng ba, tôi đi xuống hồ và lắng nghe
Các tảng băng đều xanh như bầu trời. Chúng nó mở ra cho mặt trời
Mặt trời thầm thì vào ống nói dưới các lớp nước đá
Tiếng kêu òng ọc và mầm cây. Đằng kia, xa xa, ai đó rũ chiếc khăn trải giường
Tất cả đều nhắc lại Lịch sử: THỜI SỰ của chúng ta
Chúng ta bị ngập, ta lắng nghe
II
Các bài nói chuyện giống như các hòn đảo bay, chúng gần như rơi xuống
Đoạn chiếc cầu dài vô tận rung lên với những thoả hiệp
Giao thông đã ngang qua nơi đâu, dưới các vì tinh tú
gương mặt nhợp nhạt các đứa con không được đẻ ra
chúng được vứt vào hư không cũng vô danh như những hạt gạo
III
Goethe đi Châu Phi năm 1926 mặc bộ áo quần của Gide
và ở đó nhà thơ thấy được tất cả
Một số gương mặt rõ ràng hơn,
nhân có miệt mài phân định,
sau cái chết
IV
Có những người cùng ở với nhau
như đôi vợ chồng không tương ứng đồng thanh
Họ hoá ra nhau, tuỳ thuộc vào nhau
Nhưng chúng ta là con của họ, nên cần cố gắng
Mỗi vẫn đề kêu lên trong ngôn ngữ riêng của nó
Hãy lên đường!
V
Nơi kia, trên một khoảnh đất khó xác định,
không xa các ngôi nhà
đã nhiều tháng rồi,
có một tờ báo bị quên, đầy tin tức
Nó già đi qua nhiều đêm, nhiều ngày nắng và mưa
đang trong thời chuyển thành cây, thành cải bắp, hoà hợp với đất
Giống như một kỷ niệm trong nội tâm ta dần dần được biến chuyển

Những bí mật trên đường

Dagsljuset träffade ansiktet på en som sov.
Han fick en livligare dröm
men vaknade ej.
Mörkret träffade ansiktet på en som gick
bland de andra i solens starka
otåliga strålar.
Det mörknade plötsligt som av ett störtregn.
Jag stod i ett rum som rymde alla ögonblick –
ett fjärilsmuseum.
Och ändå solen lika starkt som förut.
Dess otåliga penslar målade världen.

Dịch

Ánh sáng ban ngày đập vào khuôn mặt người đương ngủ
Anh còn mơ sôi sục hơn
nhưng không thức dậy
Bóng tối đập vào khuôn mặt người đương đi
giữa mọi người khác dưới các tia ánh sáng nóng lòng
từ mặt trời gay gắt
Bỗng bầu trời tối đi như trước một trận mưa rào
Tôi từng sống ở một nơi ôm nhiều khoảnh khắc
một bảo tàng sâu bọ cánh vảy
Dù mặt trời cũng mạnh như xưa
Các ngòi bút sốt ruột vẫn vẽ lên bộ mặt thế gian

Những ngôi nhà đơn chiếc Thuỵ Điển 

Ett virrvarr av svarta granar
och rykande månstrålar.
Här ligger torpet sänkt
och det tycks utan liv.
Tills morgondaggen sorlar
och en åldring öppnar
– med darrande hand –
fönstret och släpper ut en uv.
Och i ett annat väderstreck
står nybygget och ångar
med lakanstvättens fjäril
fladdrande vid knuten
mitt i en döende skog
där förmultningen läser
genom glasögon av sav
barkborrarnas protokoll.
Sommar med linhåriga regn
eller ett enda åskmoln
över en hund som skäller.
Fröet sparkar i jorden.
Upprörda röster, ansikten
flyger i telefontrådarna
på förkrympta snabba vingar
över myrmarkernas mil.
Huset på en ö i älven
ruvande sina grundstenar.
En ständig rök – man bränner
skogens hemliga papper.
Regnet vänder i himlen.
Ljuset slingrar i älven.
Hus på branten övervakar
vattenfallets vita oxar.
Höst med en liga av starar
som håller gryningen i schack.
Människorna rör sig stelt
på lampskenets teater.
Låt dem känna utan ängslan
de kamouflerade vingarna
och Guds energi
hoprullad i mörkret.

Dịch

Cây lộn xộn dáng đen
Nhà ánh trăng bốc khói
Một chiếc lều trôi nổi
Ngỡ không sống lâu bền
Rì rào tiếng sương sớm
Cụ ông mở cửa ra
Run rẩy bàn tay già
Thả con chim cú lớn
Trên một sân gió khác
Khói bốc – mới nếp nhà
Vải khăn giường mới giặt
Phấp phới bay đung đưa
Giữa khu rừng hấp hối
Bằng con mắt nhựa cây
Sự phân huỷ trăn trối
Lời sâu bọ giãi bày
Hè mưa, lúa mì chín
Một đám mây xối dông
Con chó sủa trống không
Trong đất, hạt ẩn kín
Nhiều tiếng kêu ái ngại
Nhiều đàn chim bay cao
Trên đường dây điện thoại
Cánh tao tác trên ao
Nhà ven đảo dòng sông
Ấp ủ chồng đá mới
Gió mải ru làn khói
Nung dấu cũ rừng thông
Mưa lại trở về trời
Ánh sáng luồn mặt nước
Nhà cheo leo trên vực
Đàn bò trắng, thác soi
Mùa thu với chim sáo
Thích thú hơn rạng đông
Những người bước đạo mạo
Dưới chụp đèn mờ sương
Làm cho lòng sục sôi
Nắm được điều bí ẩn
Tiếp nghị lực Chúa Trời
Cuộn tròn trong bất tận!

Những tảng đá Stenarna

Stenarna som vi kastat hör jag
falla, glasklara genom åren. I dalen
flyger ögonblickets förvirrade
handlingar skränande från
trädtopp till trädtopp, tystnar
i tunnare luft än nuets, glider
som svalor från bergstopp
till bergstopp tills de
nått de yttersta platåerna
utmed gränsen för varat. Där faller
alla våra gärningar
glasklara
mot ingen botten
utom oss själva.

Dịch

Những tảng đá chúng ta vứt xuống
tôi nghe tiếng chúng rơi trong như pha lê qua nhiều năm tháng
Những cử chỉ khó hiểu trong khoảnh khắc
rơi vào trong thung lũng kêu the thé trên ngọn cây này qua ngọn cây khác
rồi chúng dịu êm lại trong một cung cách lạ lùng hơn là cung cách của thời hiện tại
chúng trườn lướt qua như các con chim én từ đỉnh núi này qua một đỉnh núi khác
cho đến lúc chúng đáp được xuống cao nguyên cuối cùng ở biên cương của sự tồn tại
Tại nơi đó các hành vi của chúng ta lại rơi xuống trong như pha lê
trên các đáy sâu
khác các đáy sâu của chính tâm tưởng chúng ta

Những thể thức cuộc du hành (Đi đến vùng Balkan năm 55)

I
Et brus af stemmer efter plovmanden.
Han ser sig ikke om. De tomme marker.
Et brus af stemmer efter plovmanden.
En efter en gør skyggerne sig fri
og styrter indi sommerhimlens afgrund.
II
Der kommer fire okser under himlen
Intet stolt ved dem. Og støvet tæt som uld.
Insekternes penne skratter.
En vrimlen af heste, magre som
på grå allegorier over pesten.
Intet mildt ved dem.Og solen raser.
III
Den staldduftende landsby med tynde hunde
Partiets funktionær på markedstorvet
i den staldduftende landsbymed hvide huse.
Hans himmel følger ham: derer højt
og trangt som i en minaret.
Den vingeslæbende landsby, på bjergets side.
IV
Et gammelt hus harskudtsig for panden.
To drenge sparker bold i skumringen.
En sværm af hurtigeekkoer.–
Pludselig stjerneklart.
V
På vej i det lange mørke. Stædigt skinner
mit armbåndsur med tidens fangne insekt.
Den propfulde kupé er tæt af stilhed.
I mørket strømmer engene forbi.
Men skriveren er halvvejs i sit billede
og rejser der, på én gang muldvarp og ørn.

Dịch

I
Tiếng xì xầm sau lưng người dân cày
Anh không quay lại. Các cánh đồng đều hoang vắng
Tiếng xì xầm sau lưng người dân cày
Từng bước, các bóng tối được giải phóng
vung lên trong vực thẳm bầu trời mùa hạ
II
Bốn con bò tiến bước dưới bầu trời
Chả có gì đáng tự hào đây cả. Bụi đã có chiều dày của len dạ
Côn trùng đã làm cho cây bút chì của chúng kêu xào xạc
Một bầy ngựa cũng gầy còm
như trên bức hoạ phóng dụ xám xịt của dịch thổ tả
Chẳng có gì ngọt ngào trong ấy. Và mặt trời làm cho các đầu người phải quay đi quay lại
III
Một thôn làng đầy mùi chuồng ngựa và đầy chó gầy nhom
Một nhân viên trên một quảng trường chợ
trong một thôn làng đầy mùi chuồng ngựa và nhà cửa đều màu sắc hoe vàng
Bầu trời cứ trải theo thông làng, nó hẹp
và ở đất cao, như một tháp đền thờ Hồi giáo
Nó kéo cánh bay mình trên sườn núi
IV
Ngôi nhà cũ kỹ đã tự bắn vỡ cái sọ suy tư của nó đi rồi
Trong hoàng hôn, hai đứa bé đang đẩy lăn một quả bóng
Một đám vô số tiếng vang gấp gấp – Bỗng ánh sáng các vì sao
V
Lên đường cho một đêm dài. Khoảnh khắc chiếc đồng hồ
làm óng ánh con trùng tù phạm của thời gian
Một căn nhà đầy ắp mà sự im lặng làm cho dày thêm
Trong tranh tối tranh sáng, các bãi cỏ bị người ta dẫm đi lại lộn xộn
Thay vì nhà văn là một nửa của hình ảnh này
nhà văn thay đổi chỗ trong cảnh quan này
vừa là đại bàng, vừa là chuột chũi

Nóc nhà Krön

Med en suck börjar hissarna stiga
i höghus ömtåliga som porslin.
Det blir en het dag ute på asfalten.
Trafikmärkena har sänkta ögonlock.
Landet en uppförsbacke mot himlen.
Krön efter krön, ingen riktig skugga.
Vi flyger fram på jakt efter Dig
genom sommaren i cinemascope.
Och på kvällen ligger jag som ett fartyg
med släckta lysen, på lagom avstånd
från verkligheten, medan besättningen
svärmar i parkerna där i land.

Dịch

Thở dài, cầu thang máy đi lên
Trong ngôi nhà chọc trời dễ vỡ như đồ sành sứ
Trên đường rải nhựa ban ngày oi nồng
Biển cửa hàng đã khép chặt các hàng mi
Đất dốc ngược lên trời
Một nóc rồi một nóc, tịnh không một bóng râm
Chúng tôi bay đi tìm Anh
Trong một mùa hè của màn ảnh rộng
Và đêm, tôi nghỉ ngơi như một con tàu
trong cảnh các ánh đèn tắt ngấm
khoảng cách phải chăng cùng với hiện thực
khi đoàn thuỷ thủ giỡn đùa trên các bãi cỏ quê hương

Oklahoma 

I
Tàu hoả dừng xa dưới phương Nam. Tuyết ở New York
Tại đây có thể xắn tay áo sơ mi suốt đêm dài
Bên ngoài chẳng có ai. Chỉ có chiếc xe con
bay trong ánh đèn, những đĩa bay
II
“Chúng ta đây, chiến trường danh dự hết sức vui
vì các đồng đội đã hi sinh…”
một giọng ai nói với tôi khi tôi vừa tỉnh giấc
Sau quầy hàng của mình, anh ấy bảo:
“Tôi không thử bán chúng cho anh
không thử bán chúng cho anh
chỉ muốn cho anh nhìn thấy chúng”
Và xin anh cho tôi chiếc rìu của người dân Da đỏ
Người thanh niên nói với tôi:
“Tôi biết tôi có một thành kiến
song, thưa ngài, tôi muốn xoá bỏ đi
Ngài nghĩ như thế nào về chúng tôi?”
III
Khách sạn ô tô ấy là một cái vỏ lạ lùng. Với một chiếc xe thuê
(người trắng trẻo giúp việc đứng ngoài cánh cửa)
dường như chẳng có kỷ niệm gì và vô nghề nghiệp
cuối cùng tôi lao thẳng vào chỗ của tôi

Ostinato

Under vråkens kretsandepunkt av stillhet
rullar havet dånande fram i ljuset,
tuggar blint sitt betsel av tång och frustar
skum över stranden.
Jorden höljs av mörker som flädermössen
pejlar. Vråken stannar och blir en stjärna.
Havet rullar dånande fram och frustar
skum över stranden.

Dịch

Dưới cái điểm bất động của xác thuyền đắm giạt vào bờ,
đại dương vung vẩy và gầm lên trong ánh sáng
mù quáng gặm hết dãy hàng rào cỏ biển, và thổi phả
bọt sóng vào bờ
Mặt đất tự bao phủ mình bằng lớp dày bóng tối
đàn dơi bay đo chiều dài bằng tầm cánh bay
Xác thuyền đắm đứng im và tự biến thành ngôi sao
Đại dương tiến về phía trước vừa rú gầm vừa thổi bọt sóng vào bờ

Sau cái chết của ai

Det var en gång en chock
som lämnade efter sig en lång, blek, skimrande kometsvans.
Den hyser oss. Den gör TV—bilderna suddiga.
Den avsätter sig som kalla droppar på luftledningarna.
Man kan fortfarande hasa fram på skidor i vintersolen
mellan dungar där fjolårslöven hänger kvar.
De liknar blad rivna ur gamla telefonkataloger—
abonnenternas namn uppslukade av kölden.
Det är fortfarande skönt att känna sitt hjärta bulta.
Men ofta känns skuggan verkligare än kroppen.
Samurajen ser obetydlig ut
bredvid sin rustning av svarta drakfjäll.

Dịch

Một xúc động choáng váng
Sau đuôi dài sao chổi tái xanh và sáng
Nó cho ta lưu trú. Hình ảnh xôn xao vô tuyến truyền hình
Đặt những giọt lạnh lên không gian
Người ta trượt tuyết ngay trong ánh mặt trời vụ rét
Giữa những chòm cây đầy lá rơi bay
Nhắc những tờ ghi trên một niên lịch cũ đã hết
Mùa đông đã gặm mất tên những người mua
Còn dễ chịu khi thấy trái tim mình đang đập
Như thường cái bóng dường thật hơn chính cái thân hình ta
Người võ sĩ Nhật tưởng như là vô nghĩa
Bên cạnh những vảy rồng trong bộ áo giáp bầm đen

Sau cuộc tấn công Efter anfall

Den syge dreng.
Fas tlåst i et syn
medtungen stiv som et horn.
Han sidder med ryggen vendt mod billedet med kornmarken.
Bandagen om kæben fører tanken mod balsamering.
Hans briller er tykke som en dykkers.
Og alting er uden svar
og heftigt som når telefonen ringer i mørket.
Men billedet bagved: et landskab som giver ro
skønt kornet er en gylden storm.
Selangehovedblå himmel og drivende skyer.
Derunder i den gule bølgegang
sejler nogle hvide skjorter: høstfolk.
D kaster ingen skygger.
Der står en mand langt borte på marken
og synes at se herhen.
En bred hat skygger for hans ansigt.
Han synes at betragte den mørke skikkelse
her i værelset – vil måske hjælpe.
Umærkeligt begynder billedet at vide sig ud
og åbnes bagved den syge og hensunkne.
Det gnistrer og hamrer.
Hvert aks er tændt som for at vække ham!
Den anden – i kornet – giver et tegn.
Han har nærmet sig.
Ingen ser det.

Dịch

Người trai trẻ ốm đau
Bị giam hãm trong cảnh tượng này
ở đó lưỡi cũng cứng đờ đi như đoạn dây thừng
Nó ngồi, lưng quay lại phía bức tranh một cánh đồng lúa mì
Dải bịt cằm làm nghĩ đến một cuộc ướp xác
Kính đeo mắt của nó dày như kính người thợ lặn
Chẳng có tiếng trả lời:
cũng dữ dội như tiếng điện thoại trong đêm tối
Nhưng bức tranh sau lưng nó. Một cảnh quan yên ả
mặc dù lúa mì vàng ươm gợi chuyện bão tố
Một bầu trời độc như rắn lục và mây bay chệch đường
Dưới kia, trong lớp sóng lừng màu vàng
mấy chiếc áo sơ mi trắng trôi: những người cắt cỏ
họ không hề toả một chút bóng nào
Xa xa, trên cánh đồng, một kẻ nào đó có vẻ nhìn về phía này
Một chiếc mũ rộng vành che mất khuôn mặt
Dường như hắn quan sát cái hình bóng mờ trong gian buồng có thể giúp đỡ gì cho nó
Khó nhận thấy, bức tranh đã trải rộng ra và đã tự mở ra sau lưng người ốm
bị chìm trong mơ tưởng. Những tia lửa và những nhát búa
Mọi nhánh lúa mì đều chói sáng lên để đánh thức nó dậy
Con người kia – trong đám lúa mì – làm ra một dấu hiệu
Hắn dịch lại gần
Nhưng chả ai trông thấy hắn cả

Sự cố kết Sammanhang

Se det gråa trädet. Himlen runnit
genom dess fibrer ner i jorden –
bara en skrumpen sky är kvar när
jorden druckit. Stulen rymd
vrides i flätverket av rötter, tvinnas
till glömska. – De korta ögonblicken
av frihet stiger ur oss, virvlar
genom parcernas blod och vidare.

Dịch

Hãy trông cái cây màu xám này. Trời xanh đã len vào tới lòng đất qua các thớ gỗ của cây
chỉ còn một đám mây đầy vết nhăn khi đất không còn muốn uống thêm gì nữa
Không gian bị mất cắp quặn cong lại trong rễ dài tóc tết
quấn xoắn lại thành màu xanh đồng cỏ
Từng khoảnh khắc ngắn
sự tự do vào nảy nở trong tấm thân hình chúng ta
xoay quay cuồng trong các mạch máu của Thần Số Mệnh và chúng còn đi xa hơn nữa

Nguyễn Xuân Sanh là một trong những cây bút tiên phong cho phong trào thơ mới nước ta. Ông sở hữu một chùm thơ giá trị và đặc sắc đến ngày nay. Chiêm ngưỡng những thi phẩm đó chúng ta thêm phần thấu hiểu phong cách thơ sáng tạo của thi sĩ. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!