T.T.Kh là bút danh của một nhà thơ ẩn danh trong phong trào Thơ mới (1930–1945), hiện vẫn chưa rõ lai lịch, giới tính cụ thể. Nhiều nhà văn và nhà thơ cho rằng đây là Trần Thị Khánh, tác giả bài thơ “Hai sắc hoa Ti-gôn” nổi tiếng, một số khác cho rằng tác giả tên thật là Phạm Thị Sứ, một nữ sinh trường Đồng Khánh tại Hà Nội. Một giả thuyết khác chỉ ra nhà thơ Thâm Tâm đã sáng tác ra bài thơ, nhờ một người em gái đến tòa soạn đăng với tên T.T.K.H. và người phụ nữ đó là Trần Thị Khánh. Và để biết thêm về những bài thơ TTKH này thì bạn hãy theo dõi bài viết dưới đây nhé!
Những sáng tác của nhà thơ T.T.Kh
Hai sắc hoa tigôn
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn,
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Thuở đó nào tôi có hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy.”
*
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời gian khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! – Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…
Từ đó thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ!
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tâm bóng “một người”.
*
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
(Nhưng hồng) tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi:
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu
Gió về lạnh lẽo, chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò…
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim, phai tựa máu hồng…?
Bài thơ cuối cùng
Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ, một lòng đau…
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời, có nói đâu!
Đã lỡ, thôi rồi! Chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy luỵ từng khi.
Trách ai mang cánh “ti-gôn” ấy,
Mà viết tình em, được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ “đan áo” của chồng em.
Bài thơ “đan áo” nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem…
Là giết đời nhau đấy, biết không?
…Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương: điệu cuối cùng!
Từ nay, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi…
Buồng nghiêm thơ thẩn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi… chết
Đêm hỡi! làm sao tối thế này?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín,
Lại chính là anh? anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh, không nỡ! Nhớ không thôi!
Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt…
Sợ quá đi, anh… “có một người”!…
Bài thơ thứ nhất
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn Người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh;
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
– Gió hỡi! Làm sao lạnh rất nhiều?
Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng: “Vẫn nhớ em!”
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên?
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ!
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ…
Thì ai trông ngóng, chả nên chờ!
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
– “Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ!”
Tôi run sợ viết, lặng im nghe
Tiếng lá thu khô siết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến.
– Song đời nào dám gặp ai về!
Tuy thế, tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi!
Biết đâu… tôi: một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
Đan áo cho chồng
“Chị ơi! Nếu chị đã yêu,
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đời hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.
Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em.
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.
Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan…
*
Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao!
Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khoá chết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…
Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ tới ngày mai giật mình!”
Đôi nét về tiểu sử nhà thơ T.T.Kh
Tháng 7 năm 1937, tuần báo Tiểu thuyết thứ Bảy ở Hà Nội đăng truyện ngắn “Hoa Ti gôn” của nhà văn Thanh Châu. Khoảng 2 tháng sau, “tòa soạn nhận được một phong bì dán kín do một thiếu phụ trạc 20 tuổi, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn mang đến gửi cho chủ bút tờ báo trên, trong ấy chỉ vỏn vẹn có bài thơ ‘Hai sắc hoa ti gôn’, dưới ký tên là T.T.Kh… Có thể nói đây là lần duy nhất người thiếu phụ ấy xuất hiện”…
Trần Thị Khánh là người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau, nhưng biết không lấy được nhau nên đã giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình sau này.
Tác phẩm
T.T.Kh chỉ đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy ba bài thơ là:
“Hai sắc hoa Ti-gôn” (đăng ngày 23 tháng 9 năm 1937). Bà Trần Thị Khánh đọc truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (tờ Tiểu thuyết thứ bảy, số tháng 9-1937), xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn
“Bài thơ thứ nhất” (đăng ngày 23 tháng 11 năm 1937). Hai sắc hoa Ti-gôn đăng lên đã gây xôn xao trong làng văn chương như nhà văn Hoài Thanh ghi nhận. Để giải thích lý do viết bài thơ này, T.T.Kh. gửi đến toà soạn một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất, tâc giả cũng viết tặng riêng Thâm Tâm bài thơ có tên Đan áo.
“Bài thơ cuối cùng” (đăng ngày 30 tháng 10 năm 1938). Thâm Tâm gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ Đan áo để minh chứng rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình mà không có sự đồng ý của T.T.Kh. T.T.Kh viết tiếp một bài thơ khác lấy tiêu đề Bài thơ cuối cùng gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy, với những lời lẽ trách móc. Đay cũng là lần cuối tác giả ẩn danh này xuất hiện trước công chúng.
1. Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30-10-1937
2. Thi nhân Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, 2005
Riêng bài “Đan áo cho chồng”, đăng trên báo Phụ nữ thời đàm năm 1938.[3]
Ảnh hưởng của nhà thơ T.T.Kh
Các bài thơ của T.T.Kh được một số nhạc sĩ phổ nhạc, như bài “Hai sắc hoa Ti-gôn” của Trần Trịnh và Anh Bằng (năm 1958).
Trên đây là một số thông tin liên quan đến nhà thơ bí ẩn do tapchivannghe.com đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng với những chia sẻ trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều thông tin cần thiết về nhà thơ bí ẩn này nhé!