Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên. Ông được đánh giá với phong cách thơ sang trọng, có dư vị hoài cổ, thơ ông giàu chất nhạc và nhiều sắc thái Đông phương. Trong cuộc đời của mình ông đã sáng tác nhiều bài thơ, trong đó không thể không nhắc tới tập Ngồi quán. Đây là một tập thơ Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1971.

Ngồi quán

Tuổi Hoa ngồi rũ Quán Chùa,
Đường ngang dọc những lá bùa rủ rê…
Lửa chen hơi gió tạt về
Lọt tai xác ướp: Trận Mê Hồn nào?
Chỉ e vàng chói cửa vào
Cửa ra: núi kiếm rừng đao mịt mờ.
Đáy ly từng giọt bơ vơ
Theo nhau rụng xuống giấc mơ đen dần.
Trông ra gái Sở trai Tần
Giòng xe cuồng chữ nối vần thơ điên
Nốt đàn nghe toàn màu đen
Chợt xanh chợt đỏ mắt đèn mồ côi…
Thấy chăng “dạ lệnh” truyền rồi,
Làm sao – Chủ quán – nuốt trôi sầu này?
Chớ cười duyên, Chớ xoa tay,
Rằng: Mê hồn trận ai bày, hỏi chi!

Nữ thần hôm qua

Em là cô gái cấm cung
Giữa đêm đóng hộp giữa nhung mở màn
Tính từ phân khối hồng nhan
Để lừa ngay cả thời gian vào chuồng
Sá chi ngựa vía trâu cuồng
Trở bàn tay bắt hay buông mặc tình
Bao phen thử lại phương trình
Không cho nghiệm số mang hình trái tim.

Chiều nay bóng đá chân sim
Tiếng ve gọi cái duyên chìm với xuân
Nhát dao chợt nhẹ đồng cân
Trong tia mắt của Nữ-thần-hôm-qua
Thôi rồi, mỗi tấc thịt da
Xuống thang nhiệt lượng trên đà nấu nung
Hộp đêm vỡ lở dần khung
Kéo theo kích thước màn nhung gẫy lìa.

Quanh phường Dạ Lạc hôn mê
Vòng-đai-sao-rụng chưa hề có tên
Vượt sông Ngân tới cầu duyên
Phút giây đổi hướng phi thuyền người Thơ
Lửa ma trơi tắt bao giờ
“Em đây!” một vọng âm mờ ngàn sau.

Mối tình đầu

Đất lành có hợp không ly
Mỗi xuân sang, một dậy thì ngát hương
Vòng eo Thái, nước da Mường
Sớm khuya lòng suối mở gương chứa đầy,
Thấm vào cho bóng càng say,
Bóng em, cô gái Dao này, đó anh!

Gặp nhau nghiêng hồn rừng xanh
Thịt xương có dựng Loa thành cũng xiêu
Má đào em, lửa nào thiêu?
Cháy loang tận gốc, dây diều đứt phăng…
Giống Rồng Tiên phải anh chăng?
Môi truyền môi tới em rằng: Nòi Thơ!
Cánh hồng bay nát mưa tơ
Nẻo vu phi, hái giấc mơ dọc đường…

Tản Viên này bóng mây vương
Kìa non Bạch Hạc trải giường bình khung.
Anh ơi, màn vây chưa xong…
Đu tiên ta đánh mấy vòng đã nao!

Sông Đà sông Lô sông Thao
Cùng sông Nhị đẩy lên cao tiếng hò
Núi rừng hang suối tung hô
Dài hơi Ba Bể sóng hồ vang xa…

Chung nhau ngày MƯỜI tháng BA
Những ai xuống biển theo Cha khác gì!
Khói mây Hùng Lĩnh còn si
Tâm tư còn nét chàm ghi: Việt Thường.
Chơi xuân nhớ tổ HÙNG VƯƠNG
Nhịp đu còn bổng tình thương chưa chìm.

Niềm đau tấc cỏ

Ôi, Cỏ mang tên Người Đẹp!
Nét mày hay nét gươm đây?
Còn có sử xanh nào chép
Ngoài đôi nét máu xanh này?

Nhưng đọc cho tròn huyết tích,
Mong gì lũ sóng sông Ô!
Dựng lại cho tròn thảm kịch,
Mong chi dãy đá bên mồ!

Đá loạn khéo bày nên trận,
Sóng kêu hệt tiếng vong hồn;
Chưa dễ vào sâu nỗi hận
Mọc từ xương thịt héo hon…

Ai biết chiều nay gió vỡ
Thành muôn “mảnh hát” không tên
Phảng phất hơi Nam giọng Sở
Là gươm Người Đẹp múa lên?

Từng nét mày ngài cong vút,
“Cố Viên” hai chữ hằn ngang.
Lòng cỏ u hoài đã trút,
Xa xanh rồi hiểu cho nàng.

Tìm lại chiều cao

Hồn hoang ruổi vó ngựa Chuy
Vượt trăm vạn ngả biên thuỳ về đây.
Người yêu xưa vóc hao gầy
Đồng tiền đôi má đong đầy lửa gai.
Lầu trăng thắt mấy vòng đai
Hào quang Lưu niệm trên ngai đã mờ.

Tìm đâu suối Nhạc giòng Thơ
Gối thêu quằn quại giấc mơ Sống còn.
Mơ sao ngày tháng lăn tròn
Tầm thường qua những lối mòn bình yên.
Hỡi ơi, thần tượng hoa niên!
Trong bom đạn, cánh nàng tiên gẫy rồi!

Nhưng mà anh… nhưng mà tôi
Khác chi nàng? Cũng thế thôi: tầm thường!

Có chăng lành lại Vết thương
Đất trời kia lại hiền lương ngọt ngào
Sông dài biển rộng tay trao
Mới mong tìm lại chiều cao cho Tình.

Tiếng đó người đâu

Cùng ba mươi sáu phố phường xưa.
Đêm nay, vẫn tiếng ai sang sảng
Trời hỡi, mà sao nghẹn gió mưa?
Vĩ tuyến nào đây toan đứt phựt?
Lâu rồi căng thẳng với dây Thơ!

“Đây Tao Đàn”, sóng truyền thanh nổi,
Ai có nghe chăng lọt đáy mồ?
Ai có thấy chăng hồn nước réo?
Cửa Hàn sương quyện khói Sông Lô…
Người-mê-hơi-đất nay về đất,
Hiểu nghĩa vầng-trăng-huyết-dụ chưa?

Hai-mươi-tám giọt sao mờ,
Tàn đêm lửa quỷ bất ngờ hài tiên.
Ờ, đây mới thực người quen:
Khói thơ là áo, hoa đèn là thân.

Với ta, chỉ một nàng VÂN
Kể chi xác mượn, phong trần bấy nay.
Hé môi giọng chập chờn mây:
“ĐINH HÙNG, tên họ ai đây thế HOÀNG?
Cơn trường mộng, kiếp đi hoang,
Ném xa kỷ niệm ngoài khoang phiêu bồng.
Quên nhau hoạ có vân mồng.
Còn tên còn họ là khong còn gì!”

Ngẩng trông, khói lợt hàng mi;
Phút giây mình đã quên đi chính mình.
Nhưng quên người, hỏi sao đành?
Mấy luân hồi nữa cho lành vết thương?

Ngâm câu “Yếm tác nhân gian ngữ”
Giục ngọn đèn thu nở thịt xương.
Đôi ta lại một chiếu giường,
Cười rung bóng quỷ Vô Thường ngoài kia.

Đá trông chồng

Quên hết lời em dặn cũng nên
Chẳng ai lên chỉ núi sầu lên.
Dài cơn mộng đá xuân không tuổi
Nặng khối tình xuân đá có tên.
Gươm Cửu Trùng bay tia chớp loáng
Chùa Tam Thanh vọng tiếng chuông rền.
Mưa tuôn lệ thấm sâu ba ngấn
Cả một trời oan đội ở trên…

Đầu rơi còn mãi gan liền
Đá lăn lóc cả ngoài biên Hữu Hình
Tròn thêm mãi khối Kiên Trinh
Gái Trông Chồng đã hiển linh theo chồng.

Đồng tâm

Nhìn sâu vào đáy mắt em
Xuyên qua ngàn vạn bức rèm thuỷ tinh.
Giấc yêu đương bỗng hiện hình…
Giao thoa từng nét lung linh Địa-đàng.

Nai tơ dệt bước hồng hoang
Suối rung tay ngọc vòng loang tới trời.
Cùng hoa chắp cánh giong chơi
Bướm đưa vũ khúc về phơi phới rừng.
Sương gieo đồi cỏ men bừng
Câu thơ tình viết trên lưng vừa tròn.
Dìu nhau mẹ mẹ con con
Trăng sao tuổi hãy còn non cả bầy.
Chói loà dạ hội đêm nay
Đêm đầu tiên có Đông Tây hai đầu.
Và… chưa có vợ chồng Ngâu…

Chẳng bao giờ có! em cầu nguyện đi!

Giật mình… cô bé tình si
Ngẩng lên chớp chớp hàng mi… thẹn thùng.

Song ca

Trai Sở mòn gối hạc
Sân Tần lệ trắng đêm.
Dâu Tần xanh kiếp khác
Gái Sở lưng ong mềm.

Tiếng hát Sở u uất
Lầu Tần muôn trượng cao.
Bọn tù không ngục thất
Nhìn nhau một nghẹn ngào…

Các em – tù nước Sở
Tự biết mình hơn ai –
Ca lên nhé, thương nữ
Hai bờ sông Tần-hoài!

Nghinh hôn

Đường đi vào giấc mộng lành
Những gai cùng lửa tung hoành đó đây.
Lửa kia chàng bảo điềm may
Thiếp xin được giữ gai này làm thoa.
Dừng xe hoa mở tiệc hoa
Đê mê nhịp vũ la đà tóc hương…

Bỗng đâu sáng rực đêm trường
Vòng sao đã kết thành vương miện rồi.
Lại nghe Trái Đất bồi hồi
Thổ-tinh vừa gửi về đôi nhẫn mừng.
Trông lên thăm thẳm mấy từng
Mơ thuyền ai ghé ngập ngừng nét thu.

Sương loan tin: làng Ôn-nhu
Chờ đôi hiền phụ hiền phu trị vì.
Rồi mai ngọt cánh vu phi
Có gầu Trăng-mật, sá gì bể Đông!
Làm dây sẵn mối tơ hồng
Ươm trong thần thoại “giống Rồng nòi Tiên”.

Thế là

Thế là con ác nhả sân bay rồi bổng lên dần
Thế là bầy rắn nhổ neo vừa phun nọc độc
Thế là đoàn bọ hung sang số lao đi
Thế là cánh tay người buông rũ liệt
Thế là xong… là hết…
Thế là không còn chi…

Ôi Chiến-tranh làm biệt ly!
Như bọt vỡ trên sông trên biển
Như bụi nát nhừ trên đường ra hoả tuyến
Như trên vòm trời tan-tác mây.
Bao mảnh vụn nổ tung cứa đứt chuỗi đêm ngày

Của Tình-yêu và Tuổi-trẻ!

Thôi thế là không còn chi.
Thôi thế là xong… là hết.
Về hay chẳng về ư, nào có nghĩa gì!
Về để ôm người yêu bằng một nửa vòng tay?
Về để nhìn người yêu bằng trọn vẹn đêm dày?
Ta van mi, Dấu-hỏi,
Dừng ưỡn ẹo thân hình rõ mãi giọt cường toan
Vào những tim mòn óc mỏi!

Hoặc thoại

Bỗng dưng mọc ý hoang đường:
Trăng mâm cao, hẳn mười phương cỗ đầy.

Trăng lên mâm cỗ tự bày,
Rắn ơi, đừng vẽ cho mày thêm chân!
Con trâu ăn cỏ đồng gần
Là hơn! “Ngưu quỷ Xà thần” ai tin?
Hỏi ngay súng đạn bom mình
Xem cô gái Việt ưa nhìn đến đâu!
Cô toan bẻ gãy sừng trâu
Rắn say nọc độc tới cầu bẻ răng.

Rắn già rắn cột vào săng,
Trâu già trâu lột da thằng bán da.
Nay mai đến lượt Cuội già
Thì sao?…
… Cuội đáp: một nhà đoàn viên.

Da trời thịt đất lành nguyên,
Thoại Trung-thu, “hoặc” ư?…
“huyền” đấy ư?

Đời thi nhân

Ban mai, cảm hứng đầy không gian
Chẳng rõ là men, phấn… hay đàn.
Từ chân tóc răng thịt da cùng theo giõi
Nắng vào hôn trong máu… hoà tan.

Sức đẩy từ đâu dâng lên dìu dặt?
Buổi trưa về, xuống tận đáy cô đơn
Nằm ruỗi thằng nếp mưu toan, và khép chặt
Cửa tư duy, chờ diện kiến tâm hồn.
Rồi chiều tới… đêm tới…
Thoắt nghe mình như một sợi tơ bay.
Nửa khuya rồi, nao nức quá,
Tưởng có ai trao thần bút vào tay.
Chữ hiện dần, hiện dần, theo chẳng kịp,
Đã hình thành bao kiến trúc đam mê.
Có phải một bài thơ vừa được viết?
Ta hay ai tác giả bài-thơ-không-đề?

Nhưng… còn hỏi làm chi!
Tác phẩm đã tan thành sương khói,
Thành hương gọi, màu ru, thành nhạc đệm,
Môi trường mềm cho giấc-ngủ-không-mơ.
Giấc ngủ vô cầu vô nhiễm
Của người say cuộc đời thơ.

Phong vũ chẳng cần đo, thiều quang chẳng đếm,
Một ngày say từng phút từng giờ,
Một đời say ngoài cả nhịp thiên cơ!

Với Đinh Hùng

Bên này chiếu, nửa vời hương;
Bạn ta ư, khói nửa giường bên kia?
Nhìn sang: gối dựng thành bia,
Hồn chưa vượt bóng qua lề chiêm bao!
Hay từ ngọc vỡ thu cao
Đã năm ba mảnh cõi nào rụng rơi?
Thoắt đâu ruột bấc rối bời
Đèn khuya cháy giợn tiếng người: Hùng đây!

Kể chi khói mỏng hương gầy;
Hoa treo bấc, vẫn xum vầy bướm quen.
Mạch Thơ chung một tim đèn;
Máu đi hoang, lửa nối liền hai ta.

Đáy đêm lạc giọng cười ma
Tưởng như dầu cạn tới da thịt mình!

Lên non rồi, khúc Vong-tình;
Khói Phi-yên, chớ bay hình cố nhân!
Nằm đây gieo mộng vào thân
Mà nghe mộng nở ra vần Ác-hoa.
Phế-vương – lời nói không ngoa –
Vớt hương bùn dựng lấy toà Mê-cung.

Thơ còn ngâm, lửa còn rung,
Còn say, ta với Đinh Hùng còn nhau.

Lời ru hoà bình

Đêm nay vừa giáng sinh
Một sự thật.
Ba chàng phiêu lưu từ trong lòng hộp sắt
Đã truyền rao:
Hoà bình
Không ở trên… mà ở chung quanh…!
Hãy ngằm nguyên tư thế hưởng yên lành,
Hỡi bào-thai-sinh-ba!
May mắn cho mi được trở vào bụng Mẹ,
Thì nằm yên, nằm yên…
Địa-cầu hay Nguyệt-cầu ư? rồi quên!
Và, một điều thôi, hãy nhớ…
Phải nhớ nhé, bào-thai-sinh-ba,
Chỉ một điều duy nhất:
Đừng bao giờ chui ra!

Nhịp võng ru xoay tròn, xoay tròn…
Không ở trên… mà ở chung quanh…
Hãy nằm yên, dàn trải,
Hỡi các chú bé con, ngự-lâm-thời-đại!
Vì chính ta là Nhịp Tồn Sinh,
Lời ru Hoà Bình.

Đục trong

Chợ Tết, mai lan cúc
Đắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc.
Đời đời vẫn kết giao
Nguyền lánh xa thế tục
Thân sao nghiệp nặng nề
Cõi trần mãi chen chúc

Nhắn nhủ cùng danh hoa
Chớ e hồng tủi lục
Giờ đây bạn các em
Ruột cũng đau từng khúc.
Lũy nào xưa tốt tươi
Cổng nào xưa ngoạn mục
Liên miên khói lửa này
Dám đâu mơ hạnh phúc.
Lần lượt tre rồi măng
Đã tơi bời cốt nhục
Gắng giữ tiết cho ngay
Giữa bao là câu thúc
Còn khó hơn lên trời
Biết đâu chẳng ngã gục…

Chợ Tết, Bến Thành xuân
Lòng thơm tràn cảm xúc
Gió theo nắng đào lên
Tin hoa không ngớt giục.
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Thôi đành giữ hương trong
Vẹn thiều quang chín chục
Hàn-mai với U-lan
Một lòng như Đạm-cúc.

Gương đen

Gắng chùi giầy cho thật bóng đi em!
Nghĩ ngợi gì kia chứ?
Lau xong giầy của tôi
Em còn những đôi giầy khác nữa.
Đừng nghe bất cứ ai cười nói chung quanh!
Đừng nghe nhịp quay cuồng ngoài lộ!
Cũng đừng nghe tuồng Cải-lương trong máy phóng thanh!

Hãy tự nhủ đây là sa mạc
Và dỗ dành cho thính giác ngủ quên.
Một đứa trẻ nghèo như em
Ngồi chịu trận giữa vòng vây ảo ảnh
Cần phải dồn hết tâm tư vào con mắt
Đồng thời với cả đôi tay làm việc không ngừng.

Ừ, hãy nhìn cho kỹ nhé!
Mở lớn mắt ra coi:
Giầy của tôi đã bóng như gương.
Em soi vào đó
Sẽ thấy ngay thân phận
Của chính em và những đứa cùng loài
Nghĩa là cùng lạc loài trong thảm kịch.

Gương bạc gương vàng ư? Cổ tích
Phần các em chỉ có gương da đen bóng mũi giầy.

Trên đây, tapchivannghe.com  đã giới thiệu đến các bạn những bài thơ đầu tiên mà nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã viết trong tập thơ Ngồi quán. Đây là một tập thơ hay và đặc sắc. Và cũng được xem là tập thơ cuối trong những năm tháng sáng tác của ông. Đừng quên đón đọc các phần tiếp theo của tập thơ này để cùng tìm hiểu và cảm nhận bạn nhé!