Vũ Đình Liên là một trong những người mở đầu và góp phần thắng lợi cho phong trào thơ mới bằng một bài thơ xuất sắc. Ông luôn khát khao và đam mê thơ ca mãnh liệt dù chưa nhiều thi phẩm. Như những nhà thơ khác, ông cũng thích dịch những bài thơ nổi tiếng nước ngoài. Nếu bạn là một người yêu thơ và có thú vui sưu tầm thơ hay thì đây chắc chắn sẽ là một điểm đến tuyệt vời dành cho bạn.
Hồn rượu L’âme du vin
Un soir, l’âme du vin chantait dans les bouteilles:
”Homme, vers toi je pousse, ô cher déshérité,
Sous ma prison de verre et mes cires vermeilles,
Un chant plein de lumière et de fraternité!
Je sais combien il faut, sur la colline en flamme,
De peine, de sueur et de soleil cuisant
Pour engendrer ma vie et pour me donner l’âme;
Mais je ne serai point ingrat ni malfaisant,
Car j’éprouve une joie immense quand je tombe
Dans le gosier d’un homme usé par ses travaux,
Et sa chaude poitrine est une douce tombe
Où je me plais bien mieux que dans mes froids caveaux.
Entends-tu retentir les refrains des dimanches
Et l’espoir qui gazouille en mon sein palpitant?
Les coudes sur la table et retroussant tes manches,
Tu me glorifieras et tu seras content;
J’allumerai les yeux de ta femme ravie;
A ton fils je rendrai sa force et ses couleurs
Et serai pour ce frêle athlète de la vie
L’huile qui raffermit les muscles des lutteurs.
En toi je tomberai, végétale ambroisie,
Grain précieux jeté par l’éternel Semeur,
Pour que de notre amour naisse la poésie
Qui jaillira vers Dieu comme une rare fleur !”
Dịch
Một buổi chiều hồn rượu hát ca trong vỏ chai
Người ơi! Hỡi con người xấu số thân yêu, ta hát
Cho người nghe, trong cái nhà tù thuỷ tinh và sáp thắm tươi
Khúc hát đầy ánh sáng và đầy tình anh em chân thật.
Ta biết, người ơi! Phải mất bao nhiêu trên ngọn đồi rực lửa
Công sức con người, mồ hôi và nắng cháy chói chang
Để sinh ra ta và cho ta một tâm hồn rực rỡ
Nhưng ta sẽ không xấu đâu và cũng chẳng vô ơn.
Vì ta sung sướng vô cùng khi được rơi vào
Cổ họng người lao động cần cù, vất vả
Cái lồng ngực nhiệt nồng của người là cái mồ êm ái, ước ao
Mà ta ưa nhiều hơn là cái hầm lanh giá.
Người có nghe thấy những điệp khúc ngày chủ nhật vui sướng
Và hi vọng rì rạo trong ngực ta phập phồng
Chống khuỷu tay trên bàn và cánh tay áo xắn
Người sẽ ngợi ca ta và người sẽ hài lòng.
Ta sẽ làm cho mắt vợ người lại ngời sáng tinh anh, mê say hạnh phúc
Cho con của người ốm lại khoẻ mạnh, tươi hồng
Và cho chàng lực sĩ non nớt kia của cuộc đời nặng nhọc
Thứ dầu xoa cho bắp thịt cứng, săn hơn.
Ta sẽ rơi vào lòng người, ta, hương hoa thần tiên thảo mộc
Cái hạt quí mà người gieo hạt thiên thu đã gieo
Để cho từ mối tình của chúng ta, thơ ca sẽ mọc
Và vươn thẳng lên chúa trời, như một đoá hoa hiếm yêu kiều.
Lời than thở của Icare
Les amants des prostituées
Sont heureux, dispos et repus;
Quant à moi, mes bras sont rompus
Pour avoir étreint des nuées.
C’est grâce aux astres nonpareils,
Qui tout au fond du ciel flamboient,
Que mes yeux consumés ne voient
Que des souvenirs de soleils.
En vain j’ai voulu de l’espace
Trouver la fin et le milieu;
Sous je ne sais quel oeil de feu
Je sens mon aile qui se casse;
Et brûlé par l’amour du beau,
Je n’aurai pas l’honneur sublime
De donner mon nom à l’abîme
Qui me servira de tombeau.
Dịch
Những gã nhân tình của những cô gái điếm
Thảy đều phè phỡn, hả hê, thoả mãn
Còn ta, đôi cánh tay ta rã rời
Vì ôm mãi những đám mây trời
Chính vì nhìn những ngôi sao rực cháy
Trên trời cao xa tít mù khơi
Mà mắt ta sém bỏng rồi, chỉ thấy
Hào quang xưa của những mặt trời
Ta đã mất công muốn đo vũ trụ
Tìm đâu tận cùng đâu chính giữa
Nhưng có con mắt lửa nào rọi soi
Cho đôi cánh ta, nóng chảy, rụng rời
Lòng ta cháy vì khát khao cái đẹp
Nhưng ta không được cái vinh quang đặc biệt
Để lai tim ta cho vực thẳm chôn vùi
Thân hình ta dưới muôn lớp bể khơi
Nàng Thơ đánh đĩ
O muse de mon coeur, amante des palais,
Auras-tu, quand Janvier lâchera ses Borées,
Durant les noirs ennuis des neigeuses soirées,
Un tison pour chauffer tes deux pieds violets?
Ranimeras-tu donc tes épaules marbrées
Aux nocturnes rayons qui percent les volets?
Sentant ta bourse à sec autant que ton palais
Récolteras-tu l’or des voûtes azurées?
II te faut, pour gagner ton pain de chaque soir,
Comme un enfant de choeur, jouer de l’encensoir,
Chanter des Te Deum auxquels tu ne crois guère,
Ou, saltimbanque à jeun, étaler tes appas
Et ton rire trempé de pleurs qu’on ne voit pas,
Pour faire épanouir la rate du vulgaire.
Dịch
Nàng Thơ của lòng ta ơi! Người yêu của lâu đài cung điện
Khi tháng giêng gió lạnh thổi ào ào
Trong những đêm sương tuyết u sầu
Nàng có chăng một hòn than để hơ đôi chân nàng lạnh buốt
Nàng có sưởi cho ấm đôi vai nàng giá lạnh
Dưới những ánh đèn khe cửa sổ đêm khuya
Túi rỗng không như trống rỗng phòng the
Nàng có đi hái vàng trên bầu trời lóng lánh
Chao ôi! Để mỗi buổi chiều lòng nàng đỡ đói
Như dứa trẻ đồng ca nàng phải làm trò ca ngợi
Hát những bài ngợi chúa nàng chẳng mảy may tin
Hay như người làm xiếc, đói cơm, bày trò hấp dẫn
Với nụ cười chẳng ai hay bao nhiêu dòng lệ
Để làm nở cái vui nôn ruột của người phàm
Người tu sĩ xấu
Les cloîtres anciens sur leurs grandes murailles
Etalaient en tableaux la sainte Vérité,
Dont l’effet réchauffant les pieuses entrailles,
Tempérait la froideur de leur austérité.
En ces temps où du Christ florissaient les semailles,
Plus d’un illustre moine, aujourd’hui peu cité,
Prenant pour atelier le champ des funérailles,
Glorifiait la Mort avec simplicité.
– Mon âme est un tombeau que, mauvais cénobite,
Depuis l’éternité je parcours et j’habite;
Rien n’embellit les murs de ce cloître odieux.
O moine fainéant ! quand saurai-je donc faire
Du spectacle vivant de ma triste misère
Le travail de mes mains et l’amour de mes yeux?
Dịch
Những tu viện xưa, trên tường vách rộng mông mênh
Phô bày trên những tấm tranh chân lý thiêng liêng
Làm ấm thêm lòng những tín đồ nồng nhiệt
Và bớt vẻ lạnh lùng những nhà tu khắc nghiệt
Trong những thời Đạo chúa được mùa đẹp tựa hoa xuân
Nhiều tu sĩ nổi danh mà ngày nay ta đã quên dần
Từng lấy bãi tha ma làm xưởng vẽ
Và ca ngợi Tử thần chân thành, giản dị
Lòng ta là một nấm mồ, từ muôn đời muôn kiếp
Ta ra vào, ta ở như một tu sĩ đáng chê
Không một chút màu tươi trên tường tu viện gớm ghê
Hỡi tu sĩ lười ơi! Khi nào ta mới biết
Lấy những nỗi đau thương rớm máu của đời ta
Làm lao động của đôi tay và tình yêu của đôi mắt xót xa?
Nỗi buồn của mặt trăng
Ce soir, la lune rêve avec plus de paresse;
Ainsi qu’une beauté, sur de nombreux coussins,
Qui d’une main distraite et légère caresse
Avant de s’endormir le contour de ses seins,
Sur le dos satiné des molles avalanches,
Mourante, elle se livre aux longues pâmoisons,
Et promène ses yeux sur les visions blanches
Qui montent dans l’azur comme des floraisons.
Quand parfois sur ce globe, en sa langueur oisive,
Elle laisse filer une larme furtive,
Un poète pieux, ennemi du sommeil,
Dans le creux de sa main prend cette larme pâle,
Aux reflets irisés comme un fragment d’opale,
Et la met dans son coeur loin des yeux du soleil.
Dịch
Đêm nay trăng mơ màng, dáng trễ nải hơn
Như một người đẹp, trên chồng gối mềm nằm tựa
Với đôi bàn tay nhẹ nhàng, lơ đãng sẽ mơ man
Những đường êm đôi vú trước khi nàng ngủ
Trên lưng những đám mây như sa tanh mềm, đỏ
Uể oải, rã rời, nàng khoan khoái say sưa
Và tầm mắt nhìn xa những bức tranh trắng xoá
Từ chân trời bốc lên như những đám hoa
Đôi khi lả lướt mơ màng, ả Hằng trên mặt đất
Để một giọt lệ từ mắt nàng kín đáo nhẹ rơi
Một nhà thơ kính cẩn, ghét giấc ngủ của con người
Đưa bàn tay hứng giọt lệ mờ xanh nhạt
Óng ánh năm màu như một hòn ngọc thạch
Và giấu kín trong trái tim xa con mắt mặt trời
Những con mèo
Les amoureux fervents et les savants austères
Aiment également, dans leur mûre saison,
Les chats puissants et doux, orgueil de la maison,
Qui comme eux sont frileux et comme eux sédentaires.
Amis de la science et de la volupté
Ils cherchent le silence et l’horreur des ténèbres;
L’Erèbe les eût pris pour ses coursiers funèbres,
S’ils pouvaient au servage incliner leur fierté.
Ils prennent en songeant les nobles attitudes
Des grands sphinx allongés au fond des solitudes,
Qui semblent s’endormir dans un rêve sans fin;
Leurs reins féconds sont pleins d’étincelles magiques,
Et des parcelles d’or, ainsi qu’un sable fin,
Etoilent vaguement leurs prunelles mystiques.
Dịch
Những tình nhân say mê, những nhà bác học khốn khổ
Thường cùng yêu trong mùa chín cuộc đời
Những con mèo mạnh và hiền, kiêu hãnh trong nhà
Cũng như họ co ro, như họ ở yên một chỗ
Bạn của khoa học và của lạc thú
Chúng đi tìm của đêm tối, cái yên lặng và hãi hùng
Âm cung có thể cho chúng ta những ngựa thần âm phủ
Nếu chúng chịu uốn niềm tự hào sống nô lệ khom lưng
Khi nghĩ ngợi chúng có những dáng điệu oai nghiêm, cao quý
Của những con nhân sư nằm dài trong khoảng mênh mông vắng vẻ
Như đang ngủ yên trong một giấc mộng ngàn năm
Lưng chúng óng ánh những hào quang kỳ dị
Và những vẩy nhỏ vàng như những hạt cát mịn màng
Long lanh mơ hồ trong đôi con ngươi huyền bí
Những bà già còm cõi
I.
Dans les plis sinueux des vieilles capitales,
Où tout, même l’horreur, tourne aux enchantements,
Je guette, obéissant à mes humeurs fatales,
Des êtres singuliers, décrépits et charmants.
Ces monstres disloqués furent jadis des femmes,
Eponine ou Laïs! Monstres brisés, bossus
Ou tordus, aimons-les! ce sont encor des âmes.
Sous des jupons troués et sous de froids tissus
Ils rampent, flagellés par les bises iniques,
Frémissant au fracas roulant des omnibus,
Et serrant sur leur flanc, ainsi que des reliques,
Un petit sac brodé de fleurs ou de rébus;
Ils trottent, tout pareils à des marionnettes;
Se traînent, comme font les animaux blessés,
Ou dansent, sans vouloir danser, pauvres sonnettes
Où se pend un Démon sans pitié! Tout cassés
Qu’ils sont, ils ont des yeux perçants comme une vrille,
Luisants comme ces trous où l’eau dort dans la nuit;
Ils ont les yeux divins de la petite fille
Qui s’étonne et qui rit à tout ce qui reluit.
— Avez-vous observé que maints cercueils de vieilles
Sont presque aussi petits que celui d’un enfant?
La Mort savante met dans ces bières pareilles
Un symbole d’un goût bizarre et captivant,
Et lorsque j’entrevois un fantôme débile
Traversant de Paris le fourmillant tableau,
Il me semble toujours que cet être fragile
S’en va tout doucement vers un nouveau berceau;
A moins que, méditant sur la géométrie,
Je ne cherche, à l’aspect de ces membres discords,
Combien de fois il faut que l’ouvrier varie
La forme de la boîte où l’on met tous ces corps.
— Ces yeux sont des puits faits d’un million de larmes,
Des creusets qu’un métal refroidi pailleta …
Ces yeux mystérieux ont d’invincibles charmes
Pour celui que l’austère Infortune allaita!
II.
De Frascati défunt Vestale enamourée;
Prêtresse de Thalie, hélas! dont le souffleur
Enterré sait le nom; célèbre évaporée
Que Tivoli jadis ombragea dans sa fleur,
Toutes m’enivrent; mais parmi ces êtres frêles
Il en est qui, faisant de la douleur un miel,
Ont dit au Dévouement qui leur prêtait ses ailes:
Hippogriffe puissant, mène-moi jusqu’au ciel!
L’une, par sa patrie au malheur exercée,
L’autre, que son époux surchargea de douleurs,
L’autre, par son enfant Madone transpercée,
Toutes auraient pu faire un fleuve avec leurs pleurs!
III.
Ah! que j’en ai suivi de ces petites vieilles!
Une, entre autres, à l’heure où le soleil tombant
Ensanglante le ciel de blessures vermeilles,
Pensive, s’asseyait à l’écart sur un banc,
Pour entendre un de ces concerts, riches de cuivre,
Dont les soldats parfois inondent nos jardins,
Et qui, dans ces soirs d’or où l’on se sent revivre,
Versent quelque héroïsme au coeur des citadins.
Celle-là, droite encor, fière et sentant la règle,
Humait avidement ce chant vif et guerrier;
Son oeil parfois s’ouvrait comme l’oeil d’un vieil aigle;
Son front de marbre avait l’air fait pour le laurier!
IV.
Telles vous cheminez, stoïques et sans plaintes,
A travers le chaos des vivantes cités,
Mères au coeur saignant, courtisanes ou saintes,
Dont autrefois les noms par tous étaient cités.
Vous qui fûtes la grâce ou qui fûtes la gloire,
Nul ne vous reconnaît! un ivrogne incivil
Vous insulte en passant d’un amour dérisoire;
Sur vos talons gambade un enfant lâche et vil.
Honteuses d’exister, ombres ratatinées,
Peureuses, le dos bas, vous côtoyez les murs;
Et nul ne vous salue, étranges destinées!
Débris d’humanité pour l’éternité mûrs!
Mais moi, moi qui de loin tendrement vous surveille,
L’oeil inquiet, fixé sur vos pas incertains,
Tout comme si j’étais votre père, ô merveille!
Je goûte à votre insu des plaisirs clandestins:
Je vois s’épanouir vos passions novices;
Sombres ou lumineux, je vis vos jours perdus;
Mon coeur multiplié jouit de tous vos vices!
Mon âme resplendit de toutes vos vertus!
Ruines! ma famille! ô cerveaux congénères!
Je vous fais chaque soir un solennel adieu!
Où serez-vous demain, Éves octogénaires,
Sur qui pèse la griffe effroyable de Dieu?
Dịch
I
Trong ngõ phố quanh co các đô thành cổ kính
Mà tất cả dù ghê tởm cũng hoá say sưa
Để lòng nghe những thói quen nghệp chướng
Tôi rình mò theo dõi những bà lão già nua
Những thân hình tàn tạ ấy xưa đã là thiếu phụ
Eponine, Laïs… nay tiều tuỵ lom khom
Hãy yêu họ vì dưới những manh quần rách tã
Những lần áo mỏng manh vẫn là những tâm hồn
Lết lê trong những cơn bão táp, lạnh lùng, tàn bạo
Khập khiễng, nẩy người, khi những chiếc xe buýt chạy qua
Tay nắm chặt bên mình những di vật xưa quý báu
Một cái túi con thêu hình đố với thêu hoa
Chân thấp chân cao lò cò như những con rối
Mệt mỏi, lết lê như những con thú bị thương
Không muốn múa mà cứ phải nhay hoài, ôi hình tội
Như có con quỷ ác nào giật những dây chuông
Tàn tạ thế nhưng mà sao đôi mắt
Vẫn sắc, vẫn sâu, xoắn như chiếc dùi khoan
Sáng như hố nước trong đêm đen u uất
Đẹp như mắt thơ ngây em gái nhỏ ngỡ ngàng
Bạn có để ý chăng những chiếc quan tài bên lão
Cũng chỉ bé như của những thiếu nhi
Thần chết tinh ranh trong những chiếc quan tài giống nhau kia muốn đến
Một biểu tượng say mê, đặc biệt, dị kỳ
Và mỗi khi thoáng thấy, một bóng ma yếu ớt
Qua đường phố Paris nhộn nhịp như kiến đông người
Tôi mường tượng như bóng người kia lả lướt
Đang lừ lừ đi trở lại một chiếc nôi
Rực cháy phải là tôi đang tìm để giải
Một bài toán hình và tính thử để xem
Người thợ quan tài mấy lần phải đổi
Kích thước chiếc hòm cho những xác nhỏ hom hem
Những con mắt như giếng khơi đầy muôn dòng lệ
Những nồi nung long lanh ánh kim khí đã nguội rồi
Những đôi mắt u huyền có trăm ngàn thi vị
Chỉ những ai đã từng uống đau khổ tự trong nôi
II
Frascati, lầu xưa, những nàng trinh nữ
Khát khao tình yêu, những nàng ca kỹ, than ôi
Chỉ người nhắc vở chết rồi biết tên, biết họ
Vườn Tivoli xưa, những sắc đẹp lả lơi
Tất cả tôi đều say mê nhưng trong những thần linh gày yếu ấy
Có những con người nếm đau khổ ngọt như đường
Và đã mượn đôi cánh dài vĩ đại
Của hy sinh để bay tới thiên đường
Người thì vì tổ quốc quê hương chịu cực
Người thì vì chồng mang nặng đau thương
Người thì vì con lòng đau như cắt
Mỗi một người nước mắt chảy thành sông
III
Tôi đã đi theo gót, bao nhiêu bà già còm cõi ấy
Có một bà trong những buổi chiều tà
Khi ánh dương hồng biến chân trời thành vết thương dài máu chảy
Đến ngồi một mình trên chiếc ghế vườn hoa
Lắng tai nghe một dàn nhạc đồng sang sảng
Nơi những nhạc binh dội ngập các công viên
Trong những buổi chiều vàng mà lòng thêm khoái sảng
Rót vào lòng người thành thị chút dũng cảm cương kiên
Bà già này đường bệ, hiên ngang, lưng còn thẳng
Ngồi lắng nghe từng tiếng nhạc bản hùng ca
Đôi mắt có lúc sáng ngời như mắt phượng
Vầng trán đẹp như trán cẩm thạch để mang hoa
IV
Cứ thế đi trên đường, nhẫn nhục không than không thở
Qua những đô thành đông đúc, huyên náo, hỗn mang
Những lòng mẹ máu trào, những ca nhi, tiết phụ
Mà ngày xưa tên tuổi, tiếng đồn vang
Những nàng đã một thời nổi danh tài sắc
Nhưng bây giờ chẳng ai biết, chẳng ai hay
Một lão say nhè đi qua ghẹo một lời thô tục
Một thằng nhãi con theo chân chế giễu mỉa mai
Nuốt tủi ngậm hờn, chán chường cuộc sống
Các bà đi hổ thẹn, lách men tường
Chẳng ai hỏi, chẳng ai chào, ôi số phận
Lạ lùng, tàn tạ như từ lâu trọn kiếp đoạn trường
Nhưng mà tôi, tôi vẫn dõi theo, xót thương, cảm động
Từ đằng xa, mắt dính mỗi bước người đi
Như một người cha, theo bước con chập chững
Tôi một mình vui thầm những lạc thú huyền bí, dị kỳ
Tôi thấy cả những tình duyên xưa, thơ ngây, chói lọi
Tôi sống cả những mối tình âm thầm hay như hoa nở thắm tươi
Trái tim tôi nhân lên, say sưa những điều lầm lỗi
Tâm hồn tôi rực sáng những đức hạnh của người
Ôi! Điêu tàn, một hội một thuyền với ta, cốt nhục
Mỗi buổi chiều tôi lại long trọng tạm biệt các người
Ngày mai, nàng sẽ đến đâu, hỡi những nàng Evơ già tám chục
Quằn quại đau thương trong nanh vuốt chúa trời
Vận xúi
Pour soulever un poids si lourd,
Sisyphe, il faudrait ton courage!
Bien qu’on ait du coeur à l’ouvrage,
L’Art est long et le Temps est court.
Loin des sépultures célèbres,
Vers un cimetière isolé,
Mon coeur, comme un tambour voilé,
Va battant des marches funèbres.
— Maint joyau dort enseveli
Dans les ténèbres et l’oubli,
Bien loin des pioches et des sondes;
Mainte fleur épanche à regret
Son parfum doux comme un secret
Dans les solitudes profondes.
Dịch
Để nhắc lên tảng đá này quá nặng
Xixiphơ ơi! Phải có can đảm của ngươi
Dù ta đã đem tất cả nhiệt tâm rồi
Nghệ thuật thì lâu, thời gian thì ngắn.
Tiến về một bãi tha ma hẻo lánh
Xa, cách xa những lăng tẩm huy hoàng
Trái tim ta như một cái trống có khăn choàng
Vừa đi vừa đánh những khúc hành bi thảm
Bao nhiêu ngọc quý bị vùi sâu
Trong đêm tối và trong quên lãng
Không có cuôc thuổng nào bén mảng
Bao nhiêu đoá hoa tiếc rẻ, buồn rầu
Toả hương nhẹ như một điều bí ẩn
Trong khoảng không im lìm, sâu vắng.
Phúc trời
Lorsque, par un décret des puissances suprêmes,
Le Poète apparaît en ce monde ennuyé,
Sa mère épouvantée et pleine de blasphèmes
Crispe ses poings vers Dieu, qui la prend en pitié:
— “Ah! que n’ai je mis bas tout un noeud de vipères,
Plutôt que de nourrir cette dérision!
Maudite soit la nuit aux plaisirs éphémères
Où mon ventre a conçu mon expiation!
Puisque tu m’as choisie entre toutes les femmes
Pour être le dégoût de mon triste mari,
Et que je ne puis pas rejeter dans les flammes,
Comme un billet d’amour, ce monstre rabougri,
Je ferai rejaillir ta haine qui m’accable
Sur l’instrument maudit de tes méchancetés,
Et je tordrai si bien cet arbre misérable,
Qu’il ne pourra pousser ses boutons empestés!”
Elle ravale ainsi l’écume de sa haine,
Et, ne comprenant pas les desseins éternels,
Elle-même prépare au fond de la Géhenne
Les bûchers consacrés aux crimes maternels.
Pourtant, sous la tutelle invisible d’un Ange,
L’Enfant déshérité s’enivre de soleil
Et dans tout ce qu’il boit et dans tout ce qu’il mange
Retrouve l’ambroisie et le nectar vermeil.
II joue avec le vent, cause avec le nuage,
Et s’enivre en chantant du chemin de la croix;
Et l’Esprit qui le suit dans son pèlerinage
Pleure de le voir gai comme un oiseau des bois.
Tous ceux qu’il veut aimer l’observent avec crainte,
Ou bien, s’enhardissant de sa tranquillité,
Cherchent à qui saura lui tirer une plainte,
Et font sur lui l’essai de leur férocité.
Dans le pain et le vin destinés à sa bouche
Ils mêlent de la cendre avec d’impurs crachats;
Avec hypocrisie ils jettent ce qu’il touche,
Et s’accusent d’avoir mis leurs pieds dans ses pas.
Sa femme va criant sur les places publiques:
“Puisqu’il me trouve assez belle pour m’adorer,
Je ferai le métier des idoles antiques,
Et comme elles je veux me faire redorer;
Et je me soûlerai de nard, d’encens, de myrrhe,
De génuflexions, de viandes et de vins,
Pour savoir si je puis dans un coeur qui m’admire
Usurper en riant les hommages divins!
Et, quand je m’ennuierai de ces farces impies,
Je poserai sur lui ma frêle et forte main;
Et mes ongles, pareils aux ongles des harpies,
Sauront jusqu’à son coeur se frayer un chemin.
Comme un tout jeune oiseau qui tremble et qui palpite,
J’arracherai ce coeur tout rouge de son sein,
Et, pour rassasier ma bête favorite
Je le lui jetterai par terre avec dédain!”
Vers le Ciel, où son oeil voit un trône splendide,
Le Poète serein lève ses bras pieux
Et les vastes éclairs de son esprit lucide
Lui dérobent l’aspect des peuples furieux:
-“Soyez béni, mon Dieu, qui donnez la souffrance
Comme un divin remède à nos impuretés
Et comme la meilleure et la plus pure essence
Qui prépare les forts aux saintes voluptés!
Je sais que vous gardez une place au Poète
Dans les rangs bienheureux des saintes Légions,
Et que vous l’invitez à l’éternelle fête
Des Trônes, des Vertus, des Dominations.
Je sais que la douleur est la noblesse unique
Où ne mordront jamais la terre et les enfers,
Et qu’il faut pour tresser ma couronne mystique
Imposer tous les temps et tous les univers.
Mais les bijoux perdus de l’antique Palmyre,
Les métaux inconnus, les perles de la mer,
Par votre main montés, ne pourraient pas suffire
A ce beau diadème éblouissant et clair;
Car il ne sera fait que de pure lumière,
Puisée au foyer saint des rayons primitifs,
Et dont les yeux mortels, dans leur splendeur entière,
Ne sont que des miroirs obscurcis et plaintifs!”
Dịch
Khi Thượng Đế quyền lực tối cao ban lệnh
Cho Nhà Thơ xuất hiện trên trái đất chán chường
Mẹ nhà thơ, kinh tởm, nguyền rủa dậy mồm
Nắm chặt tay, vạch trời, căm giận, làm trời thương xót
Mụ kêu: Thà ta đẻ ra một đàn rắn độc
Còn hơn nuôi cái của dơ này
Ta nguyền rủa cái đêm ngắn ngủi, mê say
Mà bụng ta đã mang cái thai oan nghiệt
Nếu Trời đã, trời kia, vô cùng ác nghiệt
Chọn tay ta trong tất cả mọi đàn bà
Cho chồng ta trao cái của cằn cỗi thối tha
Mà ta không thể vứt vào trong đống lửa
Như một lá thư tình, ta sẽ trút tất cả
Căm thù đè nặng lòng ta, trên đầu kẻ mà bàn tay
Độc ác của người đã dùng để bắt ta chịu đắng cay
Ta sẽ bẻ queo, bẻ gãy cái cây khốn nạn
Cho những chồi độc kia không thể nào xuất hiện
Nuốt bọt dãi căm thù, không hiểu được ý trời
Mụ tự tay chất cao cái đống củi thiêu người
Mà địa ngục dành cho những người mẹ bạo tan, độc ác
Nhưng có một thiên thần chở che, bí mật
Đứa trẻ đoạ đày, say sưa, mê mải ánh trời
Và trong mỗi thức ăn thức uống của đời
Đều thấy lại những hương hoa thần thánh
Đùa với gió, chuyện với mây, nhí nhảnh
Và say sưa ca hát trên đường thập tự đau thương
Thiên thần đi theo, khóc khi thấy em hớn hở, tựa chim rừng
Trên con đường hành hương trở về Đất Thánh
Những con người mà nhà thơ yêu sợ, nhà thơ muốn tránh
Hay thấy chàng bình thản, hiền lành lại hoá khinh nhờn
Và đua nhau ai sẽ làm cho chàng phải than thở, đau buồn
Và đem độc ác, bạo tàn cho chàng nếm thử
Trong rượu trong cơm dành cho chàng mỗi bữa
Họ trộn trấu trộn gio và khạc nhổ dãi đờm
Và giả dối với ghê tởm, vứt vào những vật chàng đã cầm
Và hối hận đã đặt chân vào vết chân chàng bước
Vợ chàng ra giữa đường kêu cùng kêu khắp:
“Hắn đã cho ta đẹp và mê say thờ phụng ta
Ta sẽ làm cái nghề của những thần tượng ngày xưa
Bắt hắn phải tôn sùng ta và son tô vàng dát
Ta sẽ say sưa những trầm hương thơm ngát
No nê thịt rượu và những khấn vái lạy quỳ
Để thử xem trong một trái tim đắm đuối say mê
Ta có thể ngạo mạn, đoạt ngôi thần, ngôi thánh
Và khi ta đã chán những trò chơi kia bất kính
Ta sẽ đặt trên ngực hắn bàn tay ta vừa cứng vừa mềm
Và móng tay ta như móng tay những thần nữ trả hờn
Sẽ rạch một con đường đi vào tận trái tim của hắn
Như một con chim non, phập phồng, run bắn
Ta sẽ moi từ trong lồng ngực hắn trái tim kia
Và để cho con chó yêu của ta được một bữa no nê
Ta sẽ khinh bỉ ném trái tim kia xuống đất”
Nhưng nhà thơ bình thản vẫn giơ tay lên trời cao ngất
Kính cẩn nhìn chiếc ngai vàng lộng lẫy trên không
Và của trí tuệ chàng những tia chớp mênh mông
Che mắt chàng, chẳng thấy cảnh người đời giận dữ:
“- Chúa trời hỡi! Cám ơn Chúa đã cho đau khổ
Làm phương thuốc thần rửa sạch mọi bùn nhơ
Và là tinh hoa tuyệt vời trong sáng nhất từ xưa
Cho những con người mạnh hưởng khoái lạc, thần tiên nhất
Tôi biết Chúa vẫn dành cho nhà thơ vẫn xếp đặt
Một chỗ ngồi trong hàng ngũ những thiên thần
Và Chúa mời nhà thơ đến dự hội vinh quang
Của những ngai vàng, đạo đức và oai quyền bất tuyệt
Tôi biết đau thương là phẩm chất cao siêu duy nhất
Mà địa ngục và trần gian không thể biết bao giờ
Và để tết cái vành hoa chói lọi của nhà thơ
Phải thu hết báu vật của đất trời muôn thuở
Những của quý mất rồi của thành Palmyre xưa rực rỡ
Những kim loại không tên, tất cả những ngọc trai
Đáy bể chau chuốt, sửa sang, xếp đặt tự tay người
Không đủ tết vành mũ thiêng của nhà thơ sáng ngời chói lọi
Vì mũ ấy kết toàn bằng ánh sáng tinh anh, rực chói
Từ nguồn lửa trời nguyên thuỷ, rọi hào quang
Mà những đôi mắt người, trong sáng, rõ ràng
Bên cạnh chỉ là những mảnh gương tối tăm, buồn thảm!”
Tích vũ Huyền Trân 積雨玄珍
Huyền Trân sái tận u sầu lệ,
Hoá tác xuân mai dạ vũ thanh.
Tông quốc quả tình cừu phấn đại,
Di phu vô phận mỗi cư hành.
Nhị châu sính vật công thiên cổ,
Vạn lý giai nhân ngộ nhất sinh.
Oán hận ưng tuỳ triều thuỷ trướng,
Giang thôn tích lịch tố hàn canh.
Dịch nghĩa
Công chúa Huyền Trân từng rỏ hết giọt lệ u sầu
Hoá thành những tiếng mưa đêm trên cành mai mùa xuân
Nước nhà thật nhạt tình, coi khách son phấn như thù hằn
Người chồng man di xấu số đã làm nhơ cả chuỗi ngọc đeo
Lễ cưới hai châu, để lại của chung cho nghìn sau
Người giai nhân muôn dặm xa lìa, chịu lỡ làng một đời
Bao nỗi oán hờn, dường đang theo ngọn nước thuỷ triều dâng lên
Tại xóm bờ sông, trận mưa rả rích vẫn như kêu than trong đêm lạnh
Đồ gian ngẫu ký
Nẵng yết doanh điêu thủ lộ qua
Tả tần đại hải hữu tần hà
Đê mê cựu luỹ dư thanh thảo
Thác lạc tàn lư ỷ bạch sa
Cổ đạo phong cao hoàn cát thiểu
Hoang đình nhật mộ khốc thanh đa
Hướng thuỳ đắc hoạ Ốc Châu địa
Khước ngoại cơ dân bất hoạ tha
Dịch nghĩa
Hôm trước nghỉ ở doanh trại tiện đường đi qua
Chỗ này phía tả gần biển cả, phía hữu gần sông
Luỹ cũ lờ mờ, chỉ còn những cỏ xanh
Lều lán xen lẫn nhau, kề bãi cát trắng
Đường cũ gió lộng, thấy ít người mặc áo lành
Nơi đình hoang xế chiều, nghe nhiều tiếng khóc
Vẽ cảnh đất Ô Châu thì nhằm vào ai
Nếu bỏ đám dân đói ra không vẽ đến họ
Jan phải phạt ăn bánh nhạt
Jeanne était au pain sec dans le cabinet noir,
Pour un crime quelconque, et, manquant au devoir,
J’allai voir la proscrite en pleine forfaiture,
Et lui glissai dans l’ombre un pot de confiture
Contraire aux lois. Tous ceux sur qui, dans ma cité,
Repose le salut de la société,
S’indignèrent, et Jeanne a dit d’une voix douce:
Je ne toucherai plus mon nez avec mon pouce;
Je ne me ferai plus griffer par le minet.
Mais on s’est récrié: – Cette enfant vous connaît;
Elle sait à quel point vous êtes faible et lâche.
Elle vous voit toujours rire quand on se fâche.
Pas de gouvernement possible. À chaque instant
L’ordre est troublé par vous ; le pouvoir se détend;
Plus de règle. L’enfant n’a plus rien qui l’arrête.
Vous démolissez tout. – Et j’ai baissé la tête,
Et j’ai dit: – Je n’ai rien à répondre à cela,
J’ai tort. Oui, c’est avec ces indulgences-là
Qu’on a toujours conduit les peuples à leur perte.
Qu’on me mette au pain sec. – Vous le méritez, certe,
On vous y mettra. – Jeanne alors, dans son coin noir,
M’a dit tout bas, levant ses yeux si beaux à voir,
Pleins de l’autorité des douces créatures:
Eh bien, moi, je t’irai porter des confitures.
Dịch
Jan bị bố mẹ phạt
Nhốt trong buồng tối tăm
Phải ăn bánh mì nhạt
Vì phạm một lỗi lầm
Tôi bỏ lơi nhiệm vụ
Đến thăm kẻ tội nhân
Tội trạng thật đã rõ
Trong bóng tối, đưa thầm
Cho cháu mứt, một lọ
Trái phép luật rõ ràng
Mọi người có nhiệm vụ
Ở trong nhà, trị an
Đều nổi lên công phẫn
Bé Jan nhẹ nhàng thưa:
“Lấy tay ngoáy mũi bẩn
Từ nay cháu xin chừa
Và không để mèo cắn”
Nhưng người lớn la rầy
Con bé này ranh lắm
Nó biết ông xưa nay
Yếu đuối và nhát, hèn
Khi mọi người giận dữ
Thì ông lại cười lên
Không còn giữ được nữa
Trật tự ở trong nhà
Mỗi lần ông phá vỡ
Chính quyền bỏ lơ là
Không luật lệ nào cả
Không còn gì cản ngăn
Được con bé bất trị
Tất cả ông phá tan
Tôi cúi đầu nhận cả
“Chính cái lối khoan hồng
Như thế, xưa nay dắt
Đến thảm hoạ diệt vong
Của bao nhiêu dân tộc”
Tôi cũng xin chịu phạt
Cho tôi ăn bánh không”
“Như thế cũng đáng thật
Rồi sẽ đến lượt ông”
Bé Jan se sẽ nói
Từ chỗ cháu, với tôi
Ngẩng lên trong bóng tối
Đôi mắt xinh tuyệt vời
Của tuổi thơ dịu hiền
Nhưng mà đầy quyền lực
“Đừng sợ, cháu sẽ đem
Đến cho ông lọ mứt”
Thiệp thế ngâm
Thiệp thế ngâm
Thâm sơn hữu hổ lang,
Đại đàm hữu kình ngạc.
Thế thượng hữu qua mâu,
Thử nhân hà xứ thác?
Náo lý khổ đa dăng,
Tĩnh lý khổ đa văn.
Như hà lưỡng tiểu trùng
Thiên khán khiết nhân thân?
Dịch nghĩa
Núi sâu có hổ lang,
Đầm lớn có kình ngạc.
Ở trên đời có giáo mác,
Thân này biết tựa vào chốn nào?
Nơi nhộn, khổ nhiều ruồi,
Nơi tĩnh, khổ nhiều muỗi.
Vì sao hai con trùng nhỏ ấy,
Chỉ tìm cắn người mãi?
Dịch
Núi sâu có hổ lang
Đầm lớn có kình ngạc
Trên đời có mâu thương
Thân này gửi đâu được?
Nơi nhộn khổ nhiều ruồi
Nơi tĩnh khổ nhiều muỗi
Hai con trùng nhỏ nhoi
Sao cắn thân người mãi?
Trên đây, chúng tôi đã dành tặng đến quý độc giả những trang thơ dịch của nhà thơ Vũ Đình Liên. Hãy cùng nhau cảm nhận và suy ngẫm ngòi bút tài hoa và kiệt xuất của nhà thơ này các bạn nhé!