Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học.

Tô Đông Pha là người nổi tiếng học giỏi và rất thông minh. Năm mười lăm tuổi ông đã thông kinh sử và rất thích đọc sách của Giả Nghị, Lục Chí. Điều này chứng tỏ ông là người rất trọng đạo Nho và có chí giúp nước. Tuy nhiên tính tình của ông rất phức tạp, mâu thuẫn. Để rồi cuộc đời của mình ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho học lẫn Lão, Phật.

Ông đã dành nhiều thời gian để sáng tác thơ văn. Và vì ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Lão, Trang nên văn ông như hành vân lưu thủy. Nó hùng vĩ mà khoáng đạt và cũng không chịu một sự trói buộc nào. Và ông được người đương thời rất coi trọng và gọi là người nối gót của Âu Dương Tu trên văn đàn.

Sau đây, tapchivannghe.com sẽ giới thiệu đến các bạn các bài thơ Tô Đông Pha viết trong tập Từ.

Hạ tân lang – Hạ cảnh

賀新郎-夏景
乳燕飛華屋,
悄無人槐陰轉午,
晚涼新浴。
手弄生綃白團扇,
扇手一時似玉。
漸困倚孤眠清熟。
簾外誰來推繡戶,
枉教人夢斷瑤台曲,
又卻是,
風敲竹。

石榴半吐紅巾蹙,
待浮花浪蕊都盡,
伴君幽獨。
穠豔一枝細看取,
芳意千重似束。
又恐被秋風驚綠。
若待得君來向此,
花前對酒不忍觸。
共粉淚,
兩簌簌。

Hạ tân lang – Hạ cảnh
Nhũ yến phi hoa ốc,
Tiễu vô nhân hoè âm chuyển ngọ,
Vãn lương tân dục.
Thủ lộng sinh tiêu bạch đoàn phiến,
Phiến thủ nhất thì tự ngọc.
Tiệm khốn ỷ cô miên thanh thục.
Liêm ngoại thuỳ lai thôi tú hộ,
Uổng giao nhân mộng đoạn dao đài khúc,
Hựu khước thị,
Phong xao trúc.

Thạch lựu bán thổ hồng cân xúc,
Đãi phù hoa lãng nhị đô tận,
Bạn quân u độc.
Nùng diễm nhất chi tế khan thủ,
Phương ý thiên trùng tự thúc.
Hựu khủng bị thu phong kinh lục.
Nhược đãi đắc quân lai hướng thử,
Hoa tiền đối tửu bất nhẫn xúc.
Cộng phấn lệ,
Lưỡng thốc thốc.

Hoán khê sa (Nhuyễn thảo bình sa quá vũ tân)

浣溪沙(軟草平沙過雨新)
軟草平沙過雨新,
輕步走馬路無塵,
何時收拾耦耕身。

日暖桑麻興似潑,
風來蒿艾氣如薰,
使君元是此中人。

Hoán khê sa (Nhuyễn thảo bình sa quá vũ tân)
Nhuyễn thảo bình sa quá vũ tân,
Khinh bộ tẩu mã lộ vô trần,
Hà thì thu thập ngẫu canh thân.

Nhật noãn tang ma hưng tự bát,
Phong lai hao ngải khí như huân,
Sứ quân nguyên thị thử trung nhân.

Dịch nghĩa
Cỏ non được trận mưa tươi tỉnh,
Đi ngựa trên đường cát mỏng, không có bụi,
Đến bao giờ ta mới trở thành người đi cày đôi.

Ngày nắng ấm, dâu gai sáng sủa như được tưới nước,
Gió về cây cao, cây ngải toả hơi thơm,
Quan phủ cũng vốn là người ở trong đó ra.

Hoán khê sa (Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê)

浣溪沙(山下蘭芽短浸溪)
山下蘭芽短浸溪,
松間沙路淨無泥,
蕭蕭暮雨子規啼。

誰道人生無再少?
門前流水尚能西,
休將白發唱黃雞。

Hoán khê sa (Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê)
Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê,
Tùng gian sa lộ tĩnh vô nê,
Tiêu tiêu mộ vũ tử quy đề.

Thuỳ đạo nhân sinh vô tái thiểu,
Môn tiền lưu thuỷ thượng năng tê (tây),
Hưu tương bạch phát xứng hoàng kê.

Dịch nghĩa
Dưới núi, lau nảy mầm non, dòng suối ngắn tưới,
Giữa đám thông con đường cát sạch bụi,
Mưa chiều lất phất, tiếng chim quyên kêu.

Ai bảo đời người không trẻ trở lại,
Trước cửa dòng nước cứ chảy về tây,
Đừng cho là tóc bạc hát bài hát gà vàng.

Hoán khê sa (Tuyền mạt hồng trang khan sứ quân)

浣溪沙(旋抹紅妝看使君)
旋抹紅妝看使君,
三三五五棘籬門,
相挨踏破茜羅裙。

老幼扶攜收麥社,
烏鳶翔舞賽神村,
道逢醉叟臥黃昏。

Hoán khê sa (Tuyền mạt hồng trang khan sứ quân)
Tuyền mạt hồng trang khan sứ quân,
Tam tam ngũ ngũ cức ly môn,
Tương bài đạp phách thiên la quần.

Lão ấu phù huề thu mạch xã,
Ô diên tường vũ kiển thần thôn,
Đạo phùng tuý tẩu ngoạ hoàng hôn.

Dịch nghĩa
Trang điểm vào, vận bộ đồ đỏ ra xem quan phủ,
Từng tốp năm, tốp ba đứng bên cổng rào gai,
Chen nhau, dẫm rách cả quần là.

Già trẻ mang nhau đi gặp lúa về tế thần,
Chim quạ bay liệng trên những xóm nước hội,
Giữa đường gặp lão say nằm dưới chiều tà.

Lâm giang tiên – Dạ quy Lâm Cao

臨江仙-夜歸臨皋
夜飲東坡醒復醉,
歸來彷彿三更,
家童鼻息已雷鳴。
敲門都不應,
倚杖聽江聲。

長恨此身非我有,
何時忘卻營營?
夜闌風靜縠紋平。
小舟從此逝,
江海寄餘生。

Lâm giang tiên – Dạ quy Lâm Cao
Dạ ẩm Đông Pha tỉnh phục tuý,
Quy lai phảng phất tam canh,
Gia đồng ty tức dĩ lôi minh.
Xao môn đô bất ứng,
Ỷ trượng thính giang thanh.

Trường hận thử thân phi ngã hữu,
Hà thì vong khước doanh doanh ?
Dạ lai phong tĩnh hộc văn bình.
Tiểu chu tòng thử thệ,
Giang hải ký dư sinh.

Dịch nghĩa
Đêm uống rượu ở Đông Pha, tỉnh rồi lại say,
Trở về phỏng chừng canh ba,
Lũ trẻ hầu trong nhà ngủ ngáy như sấm.
Gõ cửa mãi chẳng thưa,
Một mình dựa gậy nghe tiếng sông.

Giận nỗi thân này chẳng phải của ta,
Bao giờ mới quên được ý nghĩ về công danh lợi lộc ?
Đêm khuya, gió lặng, sóng lăn tăn.
Chiếc thuyền nhỏ từ đây đi,
Gửi đời thừa nơi sông biển.

Mãn giang hồng

滿江紅
東武南城,
新堤固、
漣漪初溢。
隱隱遍、
長林高阜,
臥紅堆碧。
枝上殘花吹盡也,
與君更向江頭覓。
問向前、
猶有幾多春?
三之一。

官裏事,
何時畢。
風雨外,
無多日。
相將泛曲水,
滿城爭出。
君不見蘭亭修禊事,
當時座上皆豪逸。
到如今、
修竹滿山陰,
空陳跡。

Mãn giang hồng
Đông Võ nam thành,
Tân đê cố,
Liên y sơ dật.
Ẩn ẩn biên,
Trường lâm cao phụ,
Ngoạ hồng đôi bích.
Chi thượng tàn hoa xuy tận dã,
Dữ quân cánh hướng giang đầu mịch.
Vấn hướng tiền,
Do hữu kỷ đa xuân?
Tam chi nhất.

Quan lý sự,
Hà thời tất?
Phong vũ ngoại,
Vô đa nhật.
Tướng tương phiếm khúc thuỷ,
Mãn thành tranh xuất.
Quân bất kiến Lan Đình tu hễ sự,
Đương thời toạ thượng giai hào khách.
Đáo như kim,
Tu trúc mãn sơn âm,
Không trần tích.

Mãn giang hồng – Hoài Tử Do tác

滿江紅-懷子由作
清潁東流,
愁目斷、
孤帆明滅。
宦遊處、
青山白浪,
萬重千疊。
孤負當年林下意,
對床夜雨聽蕭瑟。
恨此生、
長向別離中,
添華發。

一尊酒,
黃河側。
無限事,
從頭說。
相看恍如昨,
許多年月。
衣上舊痕餘苦淚,
眉間喜氣添黃色。
便與君、
池上覓殘春,
花如雪。

Mãn giang hồng – Hoài Tử Do tác
Thanh Dĩnh đông lưu,
Sầu mục đoạn.
Cô phàm minh diệt.
Hoạn du xứ,
Thanh sơn bạch lãng,
Vạn trùng thiên điệp.
Cô phụ đương niên lâm hạ ý,
Đối sàng dạ vũ thính tiêu sắt.
Hận thử sinh.
Trường hướng biệt ly trung,
Thiêm hoa phát.

Nhất tôn tửu,
Hoàng Hà trắc.
Vô hạn sự,
Tòng đầu thuyết.
Tương khán hoảng như tạc,
Hứa đa niên nguyệt.
Y thượng cựu ngân dư khổ lệ,
Mi gian hỉ khí thiêm hoàng sắc.
Tiện dữ quân.
Trì thượng mịch tàn xuân,
Hoa như tuyết.

Dịch nghĩa
Sông Dĩnh nước trong chảy về đông,
Buồn vì quá xa không thấy rõ
Một cánh buồm đơn độc khi ẩn khi hiện.
Bị đổi đi nhiều nơi làm việc.
Núi xanh sóng trắng điệp điệp trùng trùng.
Ngày đó một mình ở góc rừng,
Nghe tiếng mưa đêm như tiếng tiêu tiếng sắt.
Hận kiếp sống này.
Luôn phải chia tay,
Tóc càng thêm bạc

Một chén rượu,
Sông Hoàng Hà ngã nghiêng.
Cuộc đời đa sự,
Sẽ tuần tự nói hết.
Đã qua nhiều năm tháng,
Nay bỗng giật mình khi thấy mặt nhau,
Như đang là thời trước.
Nước mắt rơi ướt những ngấn lệ khô trên áo,
Nét mừng vui không che hết vết thâm quầng trên mi.
Tiện dịp cùng em.
Cố tìm lại mùa xuân đang tàn tạ trên hồ,
Chỉ thấy hoa bạc như tuyết.

Mãn giang hồng – Lưu tặng Chu Thọ Xương

滿江紅-留贈朱壽昌
江漢西來,
高樓下,
葡萄深碧。
猶自帶:
岷峨雪浪,
錦江春色。
君是南山遺愛守,
我為劍外思歸客。
對此間,
風物豈無情,
殷勤說。

《江表傳》,
君休讀。
狂處士,
真堪惜。
空洲對鸚鵡,
葦花蕭瑟。
獨笑書生爭底事,
曹公黃祖俱飄忽。
願使君,
還賦謫仙詩,
追《黃鶴》。

Mãn giang hồng – Lưu tặng Chu Thọ Xương
Giang, Hán tây lai,
Cao lâu hạ,
Bồ đào thâm bích.
Do tự đới:
Mân, Nga tuyết lãng,
Cẩm giang xuân sắc.
Quân thị Nam sơn di ái thủ,
Ngã vi Kiếm ngoại tư quy khách.
Đối thử gian,
Phong vật khởi vô tình,
Ân cần thuyết.

“Giang biểu truyện”,
Quân hưu độc.
Cuồng xử sĩ,
Chân kham tích.
Không châu đối Anh Vũ,
Vi hoa tiêu sắt.
Độc tiếu thư sinh tranh để sự,
Tào công, Hoàng Tổ câu phiêu hốt.
Nguyện sứ quân,
Hoàn phú Trích Tiên thi,
Truy “Hoàng hạc”.

Nam kha tử

南歌子
山雨蕭蕭過
溪風瀏瀏淸
小圓幽謝枕蘋汀
門外月華如水綵朱橫

苕岸霜花盡
江潮雪陣平
兩山遙指海門淸
回首水雲何處覓孤城

Nam kha tử
Sơn vũ tiêu tiêu quá
Khê phong lưu lưu thanh
Tiểu viên u tạ chẩm tần đinh
Môn ngoại nguyệt hoa như thuỷ, thái chu hoành

Siêu ngạn sương hoa tận
Giang triều tuyết trận bình
Lưỡng sơn dao chỉ hải môn thanh
Hồi thủ thuỷ vân hà xứ mịch cô thành

Ngu mỹ nhân – Hữu Mỹ đường tặng Thuật Cổ

虞美人-有美堂贈述古
湖山信是東南美,
一望彌千里。
使君能得幾回來?
便使樽前醉倒且徘徊。

沙河塘里燈初上,
水調誰家唱?
夜闌風靜欲歸時,
惟有一江明月碧琉璃。

Ngu mỹ nhân – Hữu Mỹ đường tặng Thuật Cổ
Hồ sơn tín thị đông nam mỹ,
Nhất vọng di thiên lý.
Sứ quân năng đắc kỷ hồi lai?
Tiện sử tôn tiền tuý đảo thả bồi hồi.

Sa hà đường lý đăng sơ thướng,
Thuỷ Điệu thuỳ gia xướng?
Dạ lan phong tĩnh dục quy thì,
Duy hữu nhất giang minh nguyệt bích lưu ly.

Ngu mỹ nhân (Trì bôi dao khuyến thiên biên nguyệt)

虞美人(持杯遙勸天邊月)
持杯遙勸天邊月,
願月圓無缺。
持杯更復勸花枝,
且願花枝長在莫離披。

持杯月下花前醉,
休問榮枯事。
此歡能有几人知,
對酒逢花不飲待何時。

Ngu mỹ nhân (Trì bôi dao khuyến thiên biên nguyệt)
Trì bôi dao khuyến thiên biên nguyệt,
Nguyện nguyệt viên vô khuyết.
Trì bôi cánh phục khuyến hoa chi,
Thả nguyện hoa chi trường tại mạc ly phi.

Trì bôi nguyệt hạ hoa tiền tuý,
Hưu vấn vinh khô sự.
Thử hoan năng hữu kỷ nhân tri,
Đối tửu phùng hoa bất ẩm đãi hà thì?

Nhất hộc châu

一斛珠
洛城春晚。
垂楊亂掩紅樓半。
小池輕浪紋如篆。
獨下花前,
曾醉離歌宴。

自惜風流雲雨散。
關山有限情無限。
待君重見尋芳伴。
為說相思,
目斷西樓燕。

Nhất hộc châu
Lạc thành xuân vãn.
Thùy dương loạn yểm hồng lâu bán.
Tiểu trì khinh lãng văn như triện.
Độc hạ hoa tiền,
Tằng túy ly ca yến.

Tự tích phong lưu vân vũ tán.
Quan sơn hữu hạn tình vô hạn.
Đãi quân trùng kiến tầm phương bạn.
Vi thuyết tương tư,
Mục đoạn tây lâu yến.

Niệm nô kiều – Trung thu

念奴嬌-中秋
憑高眺遠,
見長空,
萬里雲無留跡。
桂魄飛來,
光射處,
冷浸一天秋碧。
玉宇瓊樓,
乘鸞來去,
人在清涼國。
江山如畫,
望中煙樹歷歷。

我醉拍手狂歌,
舉杯邀月,
對影成三客。
起舞徘徊風露下,
今夕不知何夕!
便欲乘風,
翻然歸去,
何用騎鵬翼。
水晶宮裡,
一聲吹斷橫笛。

Niệm nô kiều – Trung thu
Bằng cao diểu viễn,
Kiến trường không,
Vạn lý vân vô lưu tích.
Quế phách phi lai,
Quang xạ xứ,
Lãnh tẩm nhất thiên thu bích.
Ngọc vũ quỳnh lâu,
Thừa loan lai khứ,
Nhân tại thanh lương quốc.
Giang sơn như hoạ,
Vọng trung yên thụ lịch lịch.

Ngã tuý phách thủ cuồng ca,
Cử bôi yêu nguyệt,
Đối ảnh thành tam khách.
Khởi vũ bồi hồi phong lộ hạ,
Kim tịch bất tri hà tịch!
Tiện dục thừa phong,
Phiên nhiên quy khứ,
Hà dụng kỵ bằng dực.
Thuỷ tinh cung lý,
Nhất thanh xuy đoạn hoành địch.

Niệm nô kiều – Xích Bích hoài cổ

念奴嬌-赤壁懷古
大江東去,
浪淘盡千古風流人物。
故壘西邊,
人道是三國周郎赤壁。
亂石崩雲,
驚濤拍岸,
捲起千堆雪。
江山如畫,
一時多少豪傑。

遙想公瑾當年,
小喬初嫁了,
雄姿英發。
羽扇綸巾,
談笑間,
檣櫓灰飛煙滅。
故國神遊,
多情應笑我,
早生華髮。
人間如夢,
一樽還酹江月

Niệm nô kiều – Xích Bích hoài cổ
Đại giang đông khứ,
Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.
Cổ luỹ tây biên,
Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích.
Loạn thạch băng vân,
Nộ đào liệt ngạn,
Quyển khởi thiên đồi tuyết.
Giang sơn như hoạ,
Nhất thời đa thiểu hào kiệt.

Dao tưởng Công Cẩn đương niên,
Tiểu Kiều sơ giá liễu,
Hùng tư anh phát.
Vũ phiến luân cân,
Đàm tiếu gian,
Cường lỗ hôi phi yên diệt.
Cố quốc thần du,
Đa tình ưng tiếu ngã,
Tảo sinh hoa phát.
Nhân sinh như mộng,
Nhất tôn hoàn thù giang nguyệt.

Quy triều hoan

歸朝歡
我夢扁舟浮震澤。
雪浪搖空千頃白。
覺來滿眼是廬山,
倚天無數開青壁。
此生長接浙。
與君同是江南客。
夢中遊,
覺來清賞,
同作飛梭擲。

明日西風還挂席。
唱我新詞淚沾臆。
靈均去後楚山空,
澧陽蘭芝無顏色。
君才如夢得。
武陵更在西南極。
竹枝詞,
莫搖新唱,
誰謂古今隔。

Quy triều hoan
Ngã mộng biển chu phù Chấn trạch.
Tuyết lãng dao không thiên khoảnh bạch.
Giác lai mãn nhãn thị Lư sơn,
Ỷ thiên vô số khai thanh bích.
Thử sinh trường tiếp chiết.
Dữ quân đồng thị Giang Nam khách.
Mộng trung du,
Giác lai thanh thưởng,
Đồng tác phi thoa trịch.

Minh nhật tây phong hoàn quải tịch.
Xướng ngã tân từ lệ triêm ức.
Linh Quân khứ hậu Sở sơn không,
Lễ Dương lan chỉ vô nhan sắc.
Quân tài như Mộng Đắc.
Vũ Lăng cánh tại tây nam cực.
Trúc chi từ,
Mạc Dao tân xướng,
Thuỳ vị cổ kim cách.

Trên đây là những bài thơ mà Tô Đông Pha viết trong tập Từ của mình. Qua các bài thơ này ta có thể cảm nhận được tư tưởng của một nhà thơ lớn. Và khi ấy ông cũng được đánh giá là người có tài nhất trong bát đại gia của Trung Hoa từ thế kỷ 7 đến 13. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật các bài thơ hay bạn nhé

Tagged: