Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).

Ông xuất thân là môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Ông tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Năm 1308, ông được vua Trần Anh Tông bổ Hàn lâm học sĩ. Đời Trần Minh Tông giữ chức Hành khiển. Sang đời Trần Hiến Tông năm 1339 làm môn hạ hữu ty lang trung, đến đời Trần Dụ Tông năm 1342 đổi sang tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính sự.

Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được các vua đời Trần tôn quý như bậc thầy.

Sau đây, tapchivannghe.com sẽ giới thiệu đến các bạn những bài thơ nổi tiếng nhất của ông ở phần cuối nhé!

Dục Thuý sơn

浴翠山
山色尚依依,
遊人胡不歸。
中流光塔影,
上界塏岩扉。
浮世如今別,
閒名悟昨非。
五湖天地闊,
好訪舊漁磯。

Dục Thuý sơn
Sơn sắc thượng y y,
Du nhân hồ bất quy?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt,
Nhàn danh ngộ tạc phi.
Ngũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng cựu ngư ky.

Dịch nghĩa
Sắc núi vẫn (xanh) mượt mà
Người đi chơi sao không về
Giữa dòng sáng ngời bóng tháp
Thượng giới mở cánh cửa hang
Có cách biệt với cuộc đời trôi nổi như ngày nay
Mới biết rõ cái danh hờ trước kia là không đúng
Trời đất ở Ngũ hồ rộng thênh thang
Hãy tìm lại tảng đá ngồi câu khi trước.

Dục Thuý sơn Linh Tế tháp ký

浴翠山靈濟塔記

吾鄉多勝景,少時遊覽,足跡殆遍;嘗捨舟登此山,拊奇崖碑,剝苔認讀,則知故塔乃李朝廣祐七年辛未所建也。及陟嶔岑上嶒巓,但見殘磚癈址委翳于幽叢亂石間,不覺愀然長嘆:何興亡成敗纔二百數十餘年,遽成陳跡,將從而磨滅耶?又有作者否耶?自有宇宙,便有此山,登臨而同盡者,不知其幾也!餘後客四方,士患于纏,被未臺凊,千街舊隱,時服夢中遊你!

余後客四方,仕宦于朝,備位台省,天崖舊隱,時復夢中遊耳!

今上即位之二年冬,余在京師,山僧智柔至門告曰:重建寶塔,粵自開祐丁丑,歲臘六週,今畢工矣,願公記之。所有功德不可思議;所有報應,亦復如是。初占時,僧德文夢千餘人集山巓,其中三貴,相貌殊異,語眾曰:『汝等當知造塔是拯三塗勝事』。及下手日,僧德門夜夢竹林普慧尊者結印安鎮。及僧德淨,德明前後砌塔門路,推落大石,命與石俱訇磕數仞而下。觀者駭散以為粉碎且盡;及到地扶起,無損傷處。塔成四層,夜放光明,遠近咸賭。凡此類者,無非我佛神通力也!

且柔聞之,昔阿育王役鬼神造八萬四千塔,瞻禮者如親見佛;杖頭刻塔,亦弭妖氛;跨海浮圖,俄隨霧隱;事非怪誕,今古同符。請劖于石,以傳來世,永托伽籃境界,用為含識津梁,無乃不可乎?

余謂:釋迦老子以三空證道,滅後末時,少奉佛教,蠱或眾生,天下五分,僧殺居其一,廢滅彝倫,虛費財寶;魚魚而遊,蚩蚩而從,其不為妖魅姦軌者幾希!彼其所謂惡惡可。

雖然師乃普慧侍者,深得竹林法髓,律身苦行,有蔑三條,直張空拳,成大手段。念其躇雲根,累卷石,由寸而尺,尺而仞,一步進一步,一重高一重,以至屼然特立,勢倚穹蒼,增關河之壯觀,與造物而論功,豈滔滔閒衲可同日而語也!

噫,後此者又幾百年,俯仰變滅,重有發余長慨,寧無柔等輩數人,何可必也!若夫翠巘滄波,江空塔影,日謩扁舟,飄然其下,推蓬傲睨,戛船舷而歌滄浪,溯子陵一絲之清風,訪陶朱五湖之舊約;此景,此懷,惟余與此江山知之。

紹豊三年日月,左司郎中左諫議大夫張漢超升甫記。

Dục Thuý sơn Linh Tế tháp ký

Ngô hương đa thắng cảnh, thiếu thời du lãm, túc tích đãi biến; thường xả chu đăng thử sơn, phụ kỳ nhai bi, bác đài nhận độc, tắc tri cố tháp nãi Lý triều Quảng Hựu thất niên Tân Mùi sở kiến dã. Cập trắc khâm sầm thượng tằng điên, đãn kiến tàn chuyên phế chỉ uỷ ế vu u tùng loạn thạch gian, bất giác thiểu nhiên trường thán: hà hưng vong thành bại tài nhị bách sổ thập dư niên, cự thành trần tích, tương tòng nhi ma diệt da? Hựu hữu tác giả phủ da? Tự hữu vũ trụ, tiện hữu thử sơn, đăng lâm nhi đồng tận giả, bất tri kỳ kỷ dã!

Dư hậu khách tứ phương, sĩ hoạn vu triều, bị vị đài sảnh, thiên nhai cựu ẩn, thời phục mộng trung du nhĩ!

Kim thượng tức vị chi nhị niên đông, dư tại kinh sư, sơn tăng Trí Nhu chí môn cáo viết: Trùng kiến bảo tháp, việt tự Khai Hựu Đinh Sửu, tuế lạp lục chu, kim tất công hĩ, nguyện công ký chi. Sở hữu công đức bất khả tư nghị; sở hữu báo ứng, diệc phục như thị. Sơ chiêm thời, tăng Đức Văn mộng thiên dư nhân tập sơn điên, kỳ trung tam quý, tướng mạo thù dị, ngữ chúng viết: “Nhữ đẳng đương tri tạo tháp thị chửng tam đồ thắng sự”. Cập hạ thủ nhật, tăng Đức Môn dạ mộng Trúc lâm Phổ Tuệ Tôn giả kết ấn an trấn. Cập tăng Đức Tịnh, Đức Minh tiền hậu xế tháp môn lộ, thôi lạc đại thạch, mệnh dữ thạch câu oanh cái sổ nhận nhi hạ. Quan giả hãi tán dĩ vi phấn toái thả tận; cập đáo địa phù khởi, vô tổn thương xứ. Tháp thành tứ tằng, dạ phóng quang minh, viễn cận hàm đổ. Phàm thử loại giả, vô phi ngã Phật thần thông lực dã!

Thả Nhu văn chi, tích A Dục vương dịch quỷ thần tạo bát vạn tứ thiên tháp, chiêm lễ giả như thân kiến Phật; trượng đầu khắc tháp, diệc nhị yêu phân; khoá hải phù đồ, nga tuỳ vụ ẩn; sự phi quái đản, kim cổ đồng phù. Thỉnh sàm vu thạch, dĩ truyền lai thế, vĩnh thác già lam cảnh giới, dụng vị hàm thức tân lương, vô nãi bất khả hồ?

Dư vị: Thích Ca lão tử dĩ tam không chứng đạo, diệt hậu mạt thời, thiểu phụng Phật giáo, cổ hoặc chúng sinh, thiên hạ ngũ phần, tăng sát cư kỳ nhất, phế diệt di luân, hư phí tài bảo; ngư ngư nhi du, xuy xuy nhi tòng, kỳ bất vi yêu mỵ gian quỹ giả cơ hi! Bỉ kỳ sở vị ô ô khả.

Tuy nhiên sư nãi Phổ Tuệ thị giả, thâm đắc Trúc lâm pháp tuỷ, luật thân khổ hạnh, hữu miệt tam điều, trực trương không quyền, thành đại thủ đoạn. Niệm kỳ trước vân căn, luỹ quyển thạch, do thốn nhi xích, xích nhi nhận, nhất bộ tiến nhất bộ, nhất trùng cao nhất trùng, dĩ chí ngột nhiên đặc lập, thế ỷ khung thương, tăng quan hà chi tráng quan, dữ tạo vật nhi luận công, khởi thao thao nhàn nạp khả đồng nhật tráng quan, dữ tạo vật nhi luận công, khởi thao thao nhàn nạp khả đồng nhật nhi ngữ dã!

Y, hậu thử giả hựu kỷ bách niên, phủ ngưỡng biến diệt, trùng hữu phát dư trường khái, ninh vô Nhu đẳng bối sổ nhân, hà khả tất dã! Nhược phù thuý nghiễn thương ba, giang không tháp ảnh, nhật mộ biển chu, phiêu nhiên kỳ hạ, thôi bồng ngạo nghễ, dát thuyền huyền nhi ca “Thương Lang”, tố Tử Lăng nhất ti chi thanh phong, phỏng Đào Chu Ngũ hồ chi cựu ước; thử cảnh, thử hoài, duy dư dữ thử giang sơn tri chi.

Thiệu Phong tam niên nhật nguyệt, Tả ty lang trung Tả gián nghị đại phu Trương Hán Siêu thăng Phủ ký.

Hoá Châu tác

化州作
玉京回首五雲深,
零落殘生苦不禁。
已辨荒郊埋病骨,
海天草木共愁吟。

Hoá Châu tác
Ngọc kinh hồi thủ ngũ vân thâm,
Linh lạc tàn sinh khổ bất câm (cấm).
Dĩ biện hoang giao mai bệnh cốt,
Hải thiên thảo mộc cộng sầu ngâm.

Dịch nghĩa
Ngoảnh đầu lại Ngọc kinh, năm mây thăm thẳm,
Kiếp sống tàn điêu linh xơ xác, khổ không chịu nổi.
Đã sửa soạn chốn hoang vu để chôn vùi nắm xương ốm yếu,
Cỏ cây nơi trời biển xa xôi cùng ta ngâm thơ sầu.

Khai Nghiêm tự bi ký

開嚴寺碑記

像教由設,乃浮屠氏度人方便。蓋欲使愚而無知,迷而不悟者,即此以為回向白業地。乃其徒人之狡獪者,殊失苦空本意,務占名園佳境,以金碧其居,龍象其眾,當世留俗豪右輩,又徒而晌應。故凡天下奧區名土,寺居其半。緇黃皈之,匪耕而食,匪識而衣。匹夫匹婦往往離家室,去鄉里,隨風而靡。

噫,去聖逾遠,道之不明。任師相者,既無周召以首風化,州閭鄉黨。又無庠序以申孝弟之義,斯人安得不皇皇顧而之地,亦勢使然也。維北江路上畔,如兀甲次二社開嚴寺乃李朝月生公主所創也。其面勢則僊山望其南,甜江抱其北,一方形勝,實萃於斯。依昔規模隳祀無幾,於是內人火頭周歲遂倡率鄉人并力重新,繇開祐五年癸酉,越七年乙亥畢工。佛教僧房畢仍舊貫。落成之日闔培境矣耄莫不合掌贊嘆以為月生復生也。戊寅冬自來天長求予文以為記。且曰:『寺故有鐘,金始代石,若非記實,恐泯前蹤』。

予謂:寺廢而興,故非吾意,石立而刻何事吾言。方今聖朝欲暢皇風以救穨俗,異端在可黜,正道當復行。為士大夫者非堯舜之道不陳前,非孔孟之道不著述。顧乃區區與佛氏囁嚅,吾將誰欺。雖然歲常為內密院吏,習於曹事,晚泊士宦,好舍施,固辭厚祿,奉身而退。是吾所願學而未能也。是可書也。

開祐十一年己卯歲二月十五日。正議大夫翰林學士知制誥兼僉知內密院事掌寶賜金魚袋鴉水張漢超升甫記。

Khai Nghiêm tự bi ký

Tượng giáo do thiết, nãi phù đồ thị độ nhân phương tiện. Cái dục sử ngu nhi vô tri, mê nhi bất ngộ giả, tức thử dĩ vi hồi hướng bạch nghiệp địa. Nãi kỳ đồ chi giảo khoái giả, thù thất khổ không bản ý, vụ chiếm danh viên giai cảnh, dĩ kim bích kỳ cư, long tượng kỳ chúng, đương thế lưu tục hào hữu bối, hựu tòng nhi hưởng ứng. Cố phàm thiên hạ áo khu danh thổ, tự cư kỳ bán. Tri hoàng quy chi, phỉ canh nhi thực, phỉ thức nhi y. Thất phu thất phụ vãng vãng ly gia thất, khứ hương lý, tuỳ phong nhi my.

Y! Khứ thánh du viễn, đạo chi bất minh. Nhậm sư tướng giả, ký vô Chu Thiệu dĩ thủ phong hoá, châu lư hương đảng. Hựu vô tường tự dĩ thân hiếu đễ chi nghĩa, tư nhân an đắc bất hoàng hoàng cố nhi chi tha, diệc thế sử nhiên dã. Duy Bắc Hà lộ thượng bạn, Như Ngột giáp Thứ Nhị xã Khai Nghiêm tự nãi Lý triều Nguyệt Sinh công chúa sở sáng dã. Kỳ diện thế tắc Tiên sơn vọng kỳ nam, Điềm giang bão kỳ bắc, nhất phương hình thắng, thực tuỵ ư tư. Y! Tích quy mô, huy dĩ vô kỷ, ư thị Nội nhân hoả đầu Chu Tuế toại xướng suất hương nhân tịnh lực trùng tân, do Khai Hựu ngũ niên Quý Dậu, việt thất niên Ất Hợi tất công. Phật giáo tăng phòng, tất nhưng cựu quán. Lạc thành chi nhật, hạp cảnh trĩ mạo, mạc bất hợp chưởng tán thán, dĩ vi Nguyệt Sinh phục sinh dã. Mậu Dần đông, tự lai Thiên Trường; cầu dư văn dĩ vi ký. Thả viết: “Từ cố hữu chung, kim thuỷ đại thạch; nhược phi ký thực, khủng dẫn tiền tung”.

Dư vị: Tự phế nhi hưng, cố phi ngô ý; thạch lập nhi khắc hà sự ngô ngôn? Phương kim thánh triều, dục sướng hoàng phong dĩ cứu đồi tục; dị đoan tại khả truất, chính đạo đương phục hành. Vi sĩ đại phu giả, phi Nghiêu Thuấn chi đạo bất trần tiền, phi Khổng Mạnh chi đạo bất trước thuật, cố nãi khu khu dữ Phật thị nhiếp nhu, ngô tương thuỳ khi? Tuy nhiên, Tuế thường vi Nội mật viện lại, tập ư tào sự, vãn bạc sĩ hoạn, hiếu xả thí, cố từ hậu lộc, phụng thân nhi thoái, thị ngô sở nguyện học nhi vị năng dã, thị khả thư dã.

Khai Hựu thập nhất niên Kỷ Mão tuế, nhị nguyệt thập ngũ nhật. Chính nghị đại phu, Hàn lâm học sĩ, Tri chế cáo kiêm Thiêm tri nội mật viện sự, Chưởng bảo tứ kim ngư đại nha thuỷ Trương Hán Siêu Thăng Phủ ký.

Quá Tống đô

過宋都

艮岳神霄失故基,
茫茫煙草沒狐狸。
政經王蔡誰為厲,
事到徽欽亦可悲。
南渡重興能幾日,
中原恢復已無期。
惟餘城闕連雲外,
空使行人賦黍離。

Quá Tống đô
Cấn nhạc Thần Tiêu thất cố ky,
Mang mang yên thảo một hồ li.
Chính kinh Vương, Thái thuỳ vi lệ,
Sự đáo Huy, Khâm diệc khả bi.
Nam độ trùng hưng năng kỷ nhật,
Trung nguyên khôi phục dĩ vô kỳ.
Duy dư thành khuyết liên vân ngoại,
Không sử hành nhân phú “Thử ly”.

Dịch nghĩa
Cung Thần Tiêu núi Cấn nền cũ đã mất,
Chỉ thấy cáo chồn ẩn nấp trong đám cỏ xanh mênh mông.
Chính sự qua tay bọn Vương, Thái hỏi ai gây nên tai vạ?
Việc đến như Khâm, Huy thật cũng đáng thương.
Kinh đô dời xuống phương Nam, liệu được mấy ngày trùng hưng?
Việc khổi phục đất Trung nguyên đã không còn hy vọng nữa!
Chỉ trơ lại thành khuyết ngoài đám mây dày lớp lớp
Luống khiến người qua đường ngâm thơ “Thử ly”.

Trên đây, là một số bài thơ hay đặc sắc của Trương Hán Siêu mà chúng tôi đã tìm hiểu và muốn chia sẻ với bạn. Thông qua bài viế này bạn sẽ hiểu thêm về các bài thơ. Để rồi qua đó bộc lộ tư tưởng của nhà thơ thông qua các vấn đề thế sự. Đặc biệt bài thơ Bạch đằng giang phú là một bài thơ hay và đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông.