Tô Thức lấy hiệu là Đông Pha cư sỹ nên người đời gọi ông là Tô Đông Pha. Ông từng làm tới thông Phán, Thái Thú. Trong gia đình có cha là Tô Tuân và em là Tô Triệt đều là những đại gia thi văn và khi đó người đương thời gọi là Tam Tô. Cuộc đời ống cũng thăng trầm nhiều phen nhưng ông lại rất lạc quan. Và có thể nói những vần thơ mà ông viết ra rất hào sảng, đặc sắc, tự tại nhưng cũng tình tứ.
Dưới đây, tapchivannghe.com sẽ giới thiệu đến các bạn những bài thơ hay nhất trong sáng tác của ông nhé!
Hoạ Tử Do “Hàn thực”
和子由寒食
寒食今年二月晦,
樹林深翠已生煙。
繞城駿馬誰能藉,
到處名園意盡便。
但掛酒壺那計盞,
偶題詩句不須編。
忽聞啼鵙驚羈旅,
江上何人治廢田。
Hoạ Tử Do “Hàn thực”
Hàn thực kim niên nhị nguyệt hối,
Thụ lâm thâm thuý dĩ sinh yên.
Nhiễu thành tuấn mã thuỳ năng tạ,
Đáo xứ danh viên ý tận tiên.
Đãn quải tửu hồ na kế trản,
Ngẫu đề thi cú bất tu biên.
Hốt văn đề quyết kinh ky lữ,
Giang thượng hà nhân trị phế điền.
Hoạ Tử Do “Mãnh Trì hoài cựu”
和子由澠池懷舊
人生到外知何似,
應似飛鴻踏雪泥。
泥上偶然留指爪,
鴻飛那復計東西。
老僧已死成新塔,
壞壁無由見舊題。
往日埼嶇還記否,
路人長困蹇驢嘶。
Hoạ Tử Do “Mãnh Trì hoài cựu”
Nhân sinh đáo xứ tri hà tự,
Ứng tự phi hồng đạp tuyết nê.
Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo,
Hồng phi ná phục kế đông tê (tây).
Lão tăng dĩ tử thành tân tháp,
Hoại bích vô do kiến cựu đề.
Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ,
Lộ nhân trường khốn kiển lư đề.
Dịch nghĩa
Đời người đi đến đâu giống cái gì
Giống chim hồng dẫm trên tuyết
Ngẫu nhiên tuyết giữ lại móng ngón
Hồng bay đâu còn kể đông hay tây
Sư già đã chết thành ngôi tháp mới
Tường đổ làm sao thấy được thơ đề trước đây
Đường khấp khểnh ngày qua còn nhớ không
Người đi đường vất vả hoài, lừa bại hý
Hoạ Tử Do “Tống xuân”
和子由送春
夢裏青春可得追?
欲將詩句絆餘暉。
酒闌病客惟思睡,
蜜熟黃蜂亦懶飛。
芍藥櫻桃俱掃地,
鬢絲禪榻兩忘機。
憑君借取法界觀,
一洗人間萬事非。
Hoạ Tử Do “Tống xuân”
Mộng lý thanh xuân khả đắc truy?
Dục tương thi cú bán dư huy.
Tửu lan bệnh khách duy tư thuỵ,
Mật thục hoàng phong diệc lãn phi.
Thược dược anh đào câu tảo địa,
Mấn ty thiền tháp lưỡng vong ky (cơ).
Bằng quân tá thủ pháp giới quan,
Nhất tẩy nhân gian vạn sự phi.
Dịch nghĩa
Tuổi thanh xuân chỉ còn tìm thấy thấp thoáng trong giấc mộng,
Nên chỉ muốn mượn câu thơ kết dệt cái ánh tà huy còn sót lại của một đời người.
Rượu đã tàn, người mệt mỏi, chỉ tưởng đến giấc ngủ cho xong,
Mật đã chín, mà con ong vàng lại biếng bay.
Thược dược và anh đào rải đầy mặt đất,
Mái tóc bạc trắng và chiếc giường thiền, cả hai cùng lỡ cả.
Chi bằng mượn môn Pháp giới quán của nhà Phật,
Để một lần rửa sách hết vạn sự trong nhân gian, tất cả là không cả
Hoài thượng tảo phát
淮上早發
澹月傾雲曉角哀,
小風吹水碧鱗開。
此生定向江湖老,
默數淮中十往來。
Hoài thượng tảo phát
Đạm nguyệt khuynh vân hiểu giốc ai,
Tiểu phong xuy thuỷ bích lân khai.
Thử sinh định hướng giang hồ lão,
Mặc sổ Hoài trung thập vãng lai.
Huệ Sùng “Xuân giang vãn cảnh” kỳ 1
惠崇春江晚景其一
竹外桃花三兩枝,
春江水暖鴨先知。
蔞蒿滿地蘆芽短,
正是河豚欲上時。
Huệ Sùng “Xuân giang vãn cảnh” kỳ 1
Trúc ngoại đào hoa tam lưỡng chi,
Xuân giang thuỷ noãn áp tiên tri.
Lâu hao mãn địa lô nha đoản,
Chính thị hà đồn dục thướng thì.
Huệ Sùng “Xuân giang vãn cảnh” kỳ 2
惠崇春江晚景首二
兩兩歸鴻欲破群,
依依還似北歸人。
遙知朔漠多風雪,
更待江南半月春。
Huệ Sùng “Xuân giang vãn cảnh” kỳ 2
Lưỡng lưỡng quy hồng dục phá quần,
Y y hoàn tự bắc quy nhân.
Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết,
Cánh đãi Giang Nam bán nguyệt xuân.
Hữu Mỹ đường bạo vũ
有美堂暴雨
遊人腳底一聲雷,
滿座頑雲撥不開。
天外黑風吹海立,
浙東飛雨過江來。
十分瀲灩金尊凸,
千杖敲鏗羯鼓催。
喚起謪仙泉灑面,
倒傾鮫室瀉瓊瑰。
Hữu Mỹ đường bạo vũ
Du nhân cước để nhất thanh lôi,
Mãn toạ ngoan vân bát bất khai.
Thiên ngoại hắc phong xuy hải lập,
Chiết đông phi vũ quá giang lai.
Thập phân liễm diễm kim tôn đột,
Thiên trượng xao khanh yết cổ thôi.
Hoán khởi Trích Tiên tuyền sái diện,
Đảo khuynh giao thất tả quỳnh côi.
Dịch nghĩa
Một tiếng sấm ở dưới chân du khách
Mây lì quấn chỗ ngồi dứt không ra
Ngoài biển gió đen thổi đứng sững
Mưa từ chiết Đông kéo qua sông
Chén vàng đầy mười phần tràn cả ra
Nghìn trượng tiếng trống da rung cùng một lúc
Gọi Trích Tiên dậy giội nước vào mặt
Nghiêng lật nhà giao xối ra châu ngọc
Kiền Châu bát cảnh đồ
虔州八景圖
卻從塵外望塵中,
無限樓臺煙雨蒙。
山水照人迷向背,
只憑孤塔認西東。
Kiền Châu bát cảnh đồ
Khước tòng trần ngoại vọng trần trung,
Vô hạn lâu đài yên vũ mông.
Sơn thuỷ chiếu nhân mê hướng bối,
Chỉ bằng cô tháp nhận tây đông.
Dịch nghĩa
Từ tổng thể cõi trần nhìn một khoảng cõi trần,
Bao nhiêu lâu đài chìm trong mưa mù.
Trước non nước mênh mông làm cho người ta quên phương hướng.
Chỉ còn đỉnh tháp lẻ loi khiến người ta nhìn ra đâu là đông đâu là tây.
Lạp nhật du Cô sơn phỏng Huệ Cần, Huệ Tư nhị tăng
臘日遊孤山訪惠勤惠思二僧
天欲雪雲滿湖,
樓臺明滅山有無。
水清石出魚可數,
林深無人鳥相呼。
臘日不歸對妻孥,
名尋道人實自娛。
道人之居在何許,
寶雲山前路盤紆。
孤山孤絕誰肯廬,
道人有道山不孤。
紙窗竹屋深自暖,
擁褐坐睡依團蒲。
天寒路遠愁僕夫,
整駕催歸及未晡。
出山回望雲木合,
但見野鶻盤浮圖。
慈遊淡泊歡有餘,
到家恍如夢蘧蘧。
作詩火急追亡逋,
清景一失後難摹。
Lạp nhật du Cô sơn phỏng Huệ Cần, Huệ Tư nhị tăng
Thiên dục tuyết vãn mãn hồ,
Lâu đài minh diệt san hữu vô.
Thuỷ thanh thạch xuất ngư khả sổ,
Lâm thâm vô nhân điểu tương hô.
Lạp nhật bất quy đối thê nô,
Danh tầm đao nhân thực tự ngu.
Đạo nhân chi cư tại hà hử?,
Bảo Vân sơn tiền lộ bàn vu.
Cô sơn cô tuyệt thuỳ khẳng lư?,
Đạo nhân hữu đạo sơn bất cô.
Chỉ song trúc ốc thâm tự noãn,
Ủng hạt toạ thuỵ y đoàn bồ.
Thiên hàn lộ viễn sầu bộc phu,
Chỉnh giá thôi quy cập vị bô.
Xuất san hồi vọng vân mộc hợp,
Đãn kiến dã cốt bàn phù đồ.
Tư du đạm bạc hoan hữu dư,
Đáo gia hoảng như mộng cừ cừ.
Tác phi hoả cấp truy vong bô,
Thanh cảnh nhất thất hậu nan mô.
Dịch nghĩa
Trời muốn xuống tuyết mây giăng đầy hồ
Núi mung lung lâu đài thấp thoáng
Nước trong trông thấy đá, đếm được từng con cá
Rừng sâu không bóng người, chim gọi nhau líu lo
Ngày mồng tám tháng chạp không về với vợ con
Tiếng là đi tìm người có đạo thực ra để tự vui
Nơi pử của người có đạo ở đâu?
Đường núi trước chùa Bảo Vân quanh co
Mỗi núi Cô cao vút, ai chịu dựng lều
Người tu hành có đạo núi không hiu quạnh
Nhà tre cửa sổ giấy tự thấy ấm áp
Lồng tay vào vạt áo sư ngủ ngồi bên bồ đoàn
Trời lạnh đường xa người hầu lo lắng
Sửa soạn ra về kịp chưa đến giờ thân
Ra khỏi núi nhìn lại cây đã khuất trong hơi mù
Chỉ thấy con chim cốt đậu trên tháp
Lần đi chơi này tuy sơ sài song có dư niềm vui
Về đến nhà còn bâng khuâng như qua một giấc mơ
Vội làm thơ như đuổi bắt kẻ chạy trốn
Cảnh thanh nhã này để mất sau tìm vào đâu.
Lệ chi thán
荔枝嘆
十里一置飛塵灰,
五里一堠兵火催。
顛坑仆谷相枕藉,
知是荔枝龍眼來。
飛車跨山鶻棋海,
風枝露業如新採。
宮中美人一破顏,
驚塵濺血流千載。
永元荔枝來交州,
天寶歲貢取之涪。
至今欲姇林甫肉,
無人舉觴酹伯遊。
我願天公憐赤子,
莫生尤物為瘡痏。
雨順風調百穀登,
民不饑寒為上瑞。
君不見:
武夷溪邊粟粒芽,
前丁後蔡相籠加。
爭新買寵出新意,
今年鬥品充官茶。
吾君所乏豈此物?
致養口體何陋耶!
洛陽相君忠孝家,
可憐亦進姚黃花。
Lệ chi thán
Thập lý nhất trí phi trần hôi,
Ngũ lý nhất hậu binh hoả thôi.
Điên khanh phó cốc tương chẩm tạ,
Tri thị lệ chi long nhãn lai.
Phi xa khoá sơn cốt kỳ hải,
Phong chi lộ nghiệp như tân thái.
Cung trung mỹ nhân nhất phá nhan,
Kinh trần tiễn huyết lưu thiên tải.
Vĩnh Nguyên lệ chi lai Giao Châu,
Thiên Bảo tuế cống thủ chi Phù.
Chí kim dục thực Lâm Phủ nhục,
Vô nhân cử trường lỗi Bá Du.
Ngã nguyện thiên công liên xích tử,
Mạc sinh vưu vật vi sang vị.
Vũ thuận phong điều bách cốc đăng,
Dân bất cơ hàn vi thượng thuỵ.
Quân bất kiến:
Vũ Di khê biên túc lạp nha,
Tiền Đinh hậu Sái tương lung gia.
Tranh tân mãi sủng xuất tân ý,
Kim niên đấu phẩm sung quan trà.
Ngô quân sở phạp khởi thử vật?
Trí dưỡng khẩu thể hà lậu da!
Lạc Dương tướng quân trung hiếu gia,
Khả liên diệc tiến diêu hoàng hoa.
Dịch nghĩa
Mười dặm một trạm bụi bay mù mịt
Năm dặm một điếm giục gấp như binh lửa
Xác nằm chồng lên nhau ở khe rãnh
Đều do long nhãn và quả vải sinh ra
Xe vượt đèo núi, thuyền mang hình chim cốt đi ngoài biển
Cành lá qua gió sương phải giữ tươi như mới hái
Một nụ cười của người đẹp trong cung
Thì máu trộn với bùn chảy hàng nghìn năm nay
Năm Vĩnh Nguyên lấy vải ở Giao Châu
Năm Thiên Bảo, lệ cống vải hằng năm lấy từ đất Phù
Đến nay vẫn còn muốn ăn thịt Lâm phủ
Không ai nâng chén rượu tưới cho Bá Du
Ta mong trời thương lấy con đỏ
Đừng sinh ra của lạ, gây nên ung nhọt
Gió hoà mưa thuận mùa màng tốt tươi
Dân không đói rét là điều tốt lành hơn cả
Bác không thấy:
Bên khe Vũ Di, mầm trà như hạt thóc
Trước Đinh sau Thái cùng thêm lồng
Đem dâng vật phẩm mới để lấy lòng vua
Năm nay lại chọn thứ ngon để làm trà nhà quan
Cái vua ta thiếu đâu phải thứ này
Nuôi vua sao lại xoàng xĩnh vậy
Quan Lạc Dương cũng là nhà trung hiếu
Thương thay cũng dâng hoa diêu hoàng
Long Trung
隆中
諸葛來西國,
千年愛未衰。
今朝遊故里,
蜀客不勝悲。
誰言襄陽野,
生此萬乘師。
山中有遺貌,
矯矯龍之姿。
龍蟠山水秀,
龍去淵潭移。
空餘蜿蜒蹟,
使我寒涕垂。
Long Trung
Gia Cát lai tây quốc,
Thiên niên ái vị suy.
Kim triêu du cố lý,
Thục khách bất thăng bi.
Thuỳ ngôn Tương Dương dã,
Sinh thử vạn thặng sư.
Sơn trung hữu di mạo,
Kiểu kiểu long chi tư.
Long bàn sơn thuỷ tú,
Long khứ uyên đàm di.
Không dư uyển diên tích,
Sử ngã hàn thế thuỳ.
Lô sơn
鑪山
鑪山煙鎖浙江潮,
未到平生恨不消。
到得本來無別事,
鑪山煙鎖浙江潮。
Lô sơn
Lô sơn yên toả Chiết giang triều,
Vị đáo bình sinh hận bất tiêu.
Đáo đắc bản lai vô biệt sự,
Lô sơn yên toả Chiết giang triều
Lục nguyệt nhị thập nhật dạ độ hải
六月二十日夜渡海
參橫斗轉欲三更,
苦雨終風也解晴。
雲散月明誰點綴,
天容海色本澄清。
空餘魯叟乘桴意,
粗識軒轅奏樂聲。
九死南荒吾不恨,
茲遊奇絕冠平生。
Lục nguyệt nhị thập nhật dạ độ hải
Sâm hoành đẩu chuyển dục tam canh,
Khổ vũ chung phong giã giải tình.
Vân tán nguyệt minh thuỳ điểm xuyết,
Thiên dung hải sắc bản trừng thanh.
Không dư Lỗ tẩu thừa phù ý,
Thô thức Hiên Viên tấu nhạc thanh.
Cửu tử nam hoang ngô bất hận,
Tư du kỳ tuyệt quán bình sinh.
Dịch nghĩa
Sao sâm ngang đẩu chuyển sắp canh ba
Mưa gió kéo dài cũng đã tạnh
Trăng sang mây tan ai sắp đặt
Mầu trời sắc biển vẫn trong xanh
Không có ý như già Lỗ cưỡi bè ra biển
Hiểu sơ được tiếng nhạc của Hiên Viên
Dẫu chết nhiều lần ở đất Nam cũng không hận
Chơi lần này thú nhất từ trước đến nay
Lục nguyệt nhị thập thất nhật Vọng Hồ lâu tuý thư kỳ 1
六月二十七日望湖樓醉書其一
黑雲翻墨未遮山,
白雨跳珠亂入船。
捲地風來忽吹散,
望湖樓下水如天。
Lục nguyệt nhị thập thất nhật Vọng Hồ lâu tuý thư kỳ 1
Hắc vân phiên mặc vị già sơn,
Bạch vũ khiêu châu loạn nhập thuyền.
Quyển địa phong lai hốt xuy tán,
Vọng Hồ lâu hạ thuỷ như thiên.
Dịch nghĩa
Mây kéo đen như mực chưa che kín núi,
Giọt mưa trong như giọt châu nhẩy lung tung vào thuyền.
Bỗng nổi gió ào ào thổi tan hết,
Mặt nước dưới lầu Vọng Hồ lại phẳng như trời.
Lục nguyệt nhị thập thất nhật Vọng Hồ lâu tuý thư kỳ 2
六月二十七日望湖樓醉書其二
放生魚鱉逐人來,
無主荷花到處開。
水枕能令山俯仰,
風船解與月徘徊。
Lục nguyệt nhị thập thất nhật Vọng Hồ lâu tuý thư kỳ 2
Phóng sinh ngư miết trục nhân lai,
Vô chủ hà hoa đáo xứ khai.
Thuỷ chẩm năng linh sơn phủ ngưỡng,
Phong thuyền giải dữ nguyệt bồi hồi.
Lưu biệt Thích Ca viện mẫu đơn trình Triệu Thối
留別釋迦院牡丹呈趙倅
春風小院卻來時,
壁間惟見使君詩。
應問使君何處去,
憑花說與春風知。
年年歲歲何窮已,
花似今年人老喜。
去年崔護若重來,
前度劉郎在千里。
Lưu biệt Thích Ca viện mẫu đơn trình Triệu Thối
Xuân phong tiểu viện khước lai thì,
Bích gian duy kiến sứ quân thi.
Ưng vấn sứ quân hà xứ khứ,
Bằng hoa thuyết dữ xuân phong tri.
Niên niên tuế tuế hà cùng dĩ,
Hoa tự kim niên nhân lão hỉ.
Khứ niên Thôi Hộ khước trùng lai,
Tiền độ Lưu lang tại thiên lý.
Dịch nghĩa
Nếu ngọn gió mùa xuân đi tới nơi chùa nhỏ,
Hẳn là chỉ thấy bài thơ của sứ quân đề trên vách.
Có lẽ sẽ hỏi sứ quân đi đâu,
Nhờ hoa nói cho ngọn gió biết.
Năm này rồi năm khác, bao giờ cùng tận nổi,
Nhưng hoa vẫn còn như là hoa năm nay, mà người thì đã già.
Nếu chàng Thôi Hộ năm xưa có trở lại lần nữa,
Thì chàng Lưu đã đi ngoài xa diệu vợi.
Lý Tư Huấn hoạ “Trường Giang tuyệt đảo đồ”
李思訓畫長江絕島圖
山蒼蒼,水茫茫,
大孤小孤江中央。
崖崩路絕猿鳥去,
惟有喬木攙天長。
客舟何處來?
棹歌中流聲抑揚。
沙平風軟望不到,
孤山久與船低昂。
峨峨兩煙鬟,
曉鏡開新粧。
舟中買客莫漫狂,
小姑前年嫁彭郎。
Lý Tư Huấn hoạ “Trường Giang tuyệt đảo đồ”
Sơn thương thương, thuỷ mang mang,
Đại Cô, Tiểu Cô giang trung ương.
Nhai băng lộ tuyệt viên điểu khứ,
Duy hữu kiều mộc sam thiên trường.
Khách chu hà xứ lai?
Trạo ca trung lưu thanh ức dương.
Sa bình phong nhuyễn vọng bất đáo,
Cô sơn cửu dữ thuyền đê ngang.
Nga nga lưỡng yên hoàn,
Hiểu kính khai tân trang.
Chu trung mãi khách mạc mạn cuồng,
“Tiểu cô” tiền niên giá “Bành lang”.
Mai hoa kỳ 1
梅花其一
春來幽谷水潺潺,
的落梅花草棘間。
一夜東風吹石裂,
半隨飛雪度關山。
Mai hoa kỳ 1
Xuân lai u cốc thuỷ sàn sàn,
Đích lạc mai hoa thảo cức gian.
Nhất dạ đông phong xuy thạch liệt,
Bán tuỳ phi tuyết độ quan san.
Dịch nghĩa
Xuân đến nơi hẽm núi thâm u, nước chảy róc rách
Thấy hoa mai rụng trong đám cỏ gai
Một đêm gió xuân thổi mạnh muốn nứt đá
Một nửa hoa theo tuyết bay đến chốn quan san.
Mai hoa kỳ 2
梅花其二
何人把酒慰深幽,
開自無聊落更愁。
幸有清溪三百曲,
不辭相送到黃州。
Mai hoa kỳ 2
Hà nhân bả tửu uý thâm u,
Khai tự vô liêu lạc cánh sầu.
Hạnh hữu thanh khê tam bách khúc,
Bất từ tương tống đáo Hoàng Châu.
Dịch nghĩa
Ai đã nâng chén rượu an ủi mình nơi chốn hoang vu,
Tâm trạng sầu não càng buồn thêm nữa.
Cũng may ở đây có suối xanh uốn quanh nhiều khúc,
Tuy không lời nhưng cũng đưa người đến đất trích Hoàng Châu.
Minh nhật trùng cửu diệc dĩ bệnh bất phó Thuật Cổ hội tái dụng tiền vận
明日重九亦以病不赴述古會再用前韻
月入秋帷病枕涼,
霜飛夜簟故衾香。
可憐吹帽狂司馬,
空對親舂老孟光。
不作雍容傾座上,
翻成骯髒倚門旁。
人間此會論今古,
細看茱萸感嘆長。
Minh nhật trùng cửu diệc dĩ bệnh bất phó Thuật Cổ hội tái dụng tiền vận
Nguyệt nhập thu duy bệnh chẩm lương,
Sương phi dạ điệm cố khâm hương.
Khả liên xuy mạo cuồng tư mã,
Không đối thân thung lão Mạnh Quang.
Bất tác ung dung khuynh toạ thượng,
Phiên thành khảng tảng ỷ môn bàng.
Nhân gian thử hội luân kim cổ,
Tế khán thù du cảm thán trường.
Trên đây là những bài thơ tiếp theo mà Tô Đông Pha viết trong tập Thi nổi tiếng. Ở ông ta thấy cốt cách của một con người tài năng và có tư tưởng với đời. Bên cạnh việc sáng tác thơ ca ông còn có nhiều đóng góp cho đất nước lúc bấy giờ. Đừng quên đón đọc những bài thơ hay của Tô Đông Pha mà chúng tôi giới thiệu với bạn thông qua bài viết tiếp theo bạn nhé!