Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học.
Tô Đông Pha là người nổi tiếng học giỏi và rất thông minh. Năm mười lăm tuổi ông đã thông kinh sử và rất thích đọc sách của Giả Nghị, Lục Chí. Điều này chứng tỏ ông là người rất trọng đạo Nho và có chí giúp nước. Tuy nhiên tính tình của ông rất phức tạp, mâu thuẫn. Để rồi cuộc đời của mình ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho học lẫn Lão, Phật. Chính vì vậy thơ văn ông như hành vân lưu thủy, vô cùng hùng vĩ mà khoáng đạt. Và cũng không chịu bất cứ sự trói buộc nào cả. Đó cũng chính là cái làm nên chất riêng của Tô Đông Pha. Nó không trộn lẫn hay hòa trộn với một ai.
Dưới đây là những bài thơ hay của Tô Đông Pha mà tapchivannghe.com đã chọn lọc và muốn giới thiệu với bạn.
Sơn thôn kỳ 2
山村其二
煙雨蒙蒙雞犬聲,
有生何處不安生。
但令黃犢無人佩,
布谷何勞也勸耕。
Sơn thôn kỳ 2
Yên vũ mông mông kê khuyển thanh,
Hữu sinh hà xứ bất an sinh.
Đãn linh hoàng độc vô nhân bội,
Bố cốc hà lao dã khuyến canh.
Sơn thôn kỳ 3
山村其三
老翁七十自腰鎌,
慚愧春山筍蕨甜。
豈是聞韶解忘味,
邇來三月無食鹽。
Sơn thôn kỳ 3
Lão ông thất thập tự yêu liêm,
Tàm quý xuân sơn duẩn quyết điềm.
Khởi thị văn thiều giải vong vị,
Nhĩ lai tam nguyệt vô thực diêm.
Sơn thôn kỳ 4
山村其四
杖藜裹飯去匆匆,
過眼青錢轉手空。
贏得兒童語音好,
一年強半在城中。
Sơn thôn kỳ 4
Trượng lê khoả phạn khứ thông thông,
Quá nhãn thanh tiền chuyển thủ không.
Doanh đắc nhi đồng ngữ âm hảo,
Nhất niên cường bán tại thành trung.
Tặng Đông Lâm tổng trường lão
贈東林總長老
溪聲便是廣長舌,
山色豈非清淨身。
夜來八萬四千偈,
他日何如舉似人。
Tặng Đông Lâm tổng trường lão
Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt,
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân.
Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ,
Tha nhật hà như cử tự nhân.
Tặng Lĩnh Thượng mai
贈嶺上梅
梅花開後百花開,
過盡行人君不來。
不趁青梅當煮酒,
要看細雨熟黃梅。
Tặng Lĩnh Thượng mai
Mai hoa khai hậu bách hoa khai,
Quá tận hành nhân quân bất lai.
Bất sấn thanh mai đương chử tửu,
Yêu khan tế vũ thục hoàng mai.
Tặng Lưu Cảnh Văn
贈劉景文
荷盡已無擎雨蓋,
菊殘猶有傲霜枝,
一年好景君須記,
最是橙黃橘綠時。
Tặng Lưu Cảnh Văn
Hà tận dĩ vô kình vũ cái,
Cúc tàn do hữu ngạo sương chi,
Nhất niên hảo cảnh quân tu ký,
Tối thị tranh hoàng quất lục thì.
Dịch nghĩa
Sen hết đã không còn lộng che mưa,
Cúc tàn vẫn còn trơ nhành ngạo trong sương.
Cảnh đẹp trong một năm xin anh hãy nhớ,
(Đẹp) nhất là khi cam vàng và quất xanh.
Tần Mục Công mộ
秦穆公墓
橐泉在城東,
墓在城中無百步。
乃知昔未有此城,
秦人以泉識公墓。
昔公生不誅孟明,
豈有死之日而忍用其良。
乃知三子徇公意,
亦如齊之二子從田橫。
古人感一飯,
尚能殺其身。
今人不復見此等,
乃以所見疑古人。
古人不可望,
今人益可傷。
Tần Mục Công mộ
Thác tuyền tại thành đông,
Mộ tại thành trung vô bách bộ.
Nãi tri tích vị hữu thử thành,
Tần nhân dĩ tuyền thức công mộ.
Tích công sinh bất tru Mạnh Minh,
Khởi hữu tử chi nhật nhi nhẫn dụng kỳ lương.
Nãi tri tam tử tuẫn công ý,
Diệc như Tề chi nhị tử tòng Điền Hoành.
Cổ nhân cảm nhất phạn,
Thượng năng sát kỳ thân.
Kim nhân bất phục kiến thử đẳng,
Nãi dĩ sở kiến nghi cổ nhân.
Cổ nhân bất khả vọng,
Kim nhân ích khả thương.
Tân Sửu thập nhất nguyệt thập cửu nhật ký dữ Tử Do biệt ư Trịnh Châu tây môn chi ngoại mã thượng phú thi nhất thiên kí chi
辛丑十一月十九日既與子由 別於鄭州西門之外馬上賦詩 一篇寄之
不飲胡為醉兀兀,
此心已逐歸鞍發。
歸人猶自念庭闈,
今我何以慰寂寞!
登高回首坡壟隔,
但見烏帽出復沒。
苦寒念爾衣裘薄,
獨騎瘦馬踏殘月。
路人行歌居人樂,
童僕怪我苦悽惻。
亦知人生要有別,
但恐歲月去飄忽。
寒燈相對記疇昔,
夜雨何時聽蕭瑟?
君知此意不可忘,
慎勿苦愛高官職。
Tân Sửu thập nhất nguyệt thập cửu nhật ký dữ Tử Do biệt ư Trịnh Châu tây môn chi ngoại mã thượng phú thi nhất thiên kí chi
Bất ẩm hồ vi tuý ngột ngột,
Thử tâm dĩ trục quy yên phát.
Quy nhân do tự niệm đình vi,
Kim ngã hà dĩ uỷ tịch mịch!
Đăng cao hồi thủ pha lũng cách,
Đãn kiến ô mạo xuất phục một.
Khổ hàn niệm nhĩ y cừu bạc,
Độc kỵ sấu mã đạp tàn nguyệt.
Lộ nhân hành ca cư nhân lạc,
Đồng bộc quái ngã khổ thê trắc.
Diệc tri nhân sinh yếu hữu biệt,
Đãn khủng tuế nguyệt khứ phiêu hốt.
Hàn đăng tương đối ký trù tích,
Dạ vũ hà thì thính tiêu sắt?
Quân tri thử ý bất khả vong,
Thận vật khổ ái cao quan chức.
Tân Thành đạo trung
新城道中
東風知我欲山行,
吹斷檐間積雨聲。
嶺上晴雲披絮帽,
樹頭初日挂銅鉦。
野桃含笑竹籬短,
溪柳自搖沙水清。
西崦人家應最樂,
煮芹燒筍餉春耕。
Tân Thành đạo trung
Đông phong tri ngã dục sơn hành,
Xuy đoạn thiềm gian tích vũ thanh.
Lĩnh thượng tình vân phi nhứ mạo,
Thụ đầu sơ nhật quải đồng chinh.
Dã đào hàm tiếu trúc ly đoản,
Khê liễu tự dao sa thuỷ thanh.
Tây yêm nhân gia ưng tối lạc,
Chử cần thiêu duẩn hướng xuân canh.
Tẩy nhi hí tác
洗兒戲作
人皆養子望聰明。
我被聰明誤一生。
惟愿孩兒愚且魯,
無災無難到公卿。
Tẩy nhi hí tác
Nhân giai dưỡng tử vọng thông minh.
Ngã bị thông minh ngộ nhất sinh.
Duy nguyện hài nhi ngu thả lỗ,
Vô tai vô nạn đáo công khanh.
Tây Sơn thi hoạ giả tam thập dư nhân, tái dụng tiền vận vi tạ
西山詩和者三十餘人,再用前韻為謝
朱顏發過如春醅,
胸中梨棗初未栽。
丹砂未易掃白髮,
赤松卻欲參黃梅。
寒溪本自遠公社,
白蓮翠竹依崔嵬。
當時石泉照金像,
神光夜發如五臺。
飲泉鑑面得真意,
坐視萬物皆浮埃。
欲收暮景返田里,
遠泝江水窮離堆。
還朝豈獨羞老病,
自歎才盡傾空罍。
諸公渠渠若夏屋,
吞吐風月清隅隈。
我如廢井久不食,
古甃缺落生陰苔。
數詩往復相感發,
汲新除舊寒光開。
遙知二月春江闊,
雪浪倒卷雲峰摧。
石中無聲水亦靜,
云何解轉空山雷。
欲就諸公評此語,
要識憂喜何從來。
願求南宗一勺水,
往與屈賈湔餘哀。
Tây Sơn thi hoạ giả tam thập dư nhân, tái dụng tiền vận vi tạ
Chu nhan phát quá như xuân phôi,
Hung trung lê táo sơ vị tài.
Đan sa vị dị tảo bạch phát,
Xích tùng khước dục tham Hoàng Mai.
Hàn khê bản tự Viễn công xã,
bạch liên thuý trúc y thôi ngôi.
Đương thời thạch tuyền chiếu kim tượng,
Thần quang dạ phát như Ngũ Đài.
Ẩm tuyền giám diện chân đắc ý,
Toạ khan vạn vật giai phù ai.
Dục thâu mộ cảnh phản điền lý,
Viễn tố giang thuỷ cùng Ly Đôi.
Hoàn triều khởi độc tu lão bệnh,
Tự thán tài tận khuynh không lôi.
Chư công cừ cừ nhược hạ ốc,
Thôn thổ phong nguyệt thanh ngung ôi.
Ngã như phế tỉnh cửu bất thực,
Cổ trứu khuyết lạc sinh âm đài.
Số thi vãng phục tương cảm phát,
Cấp tân trừ cựu hàn quang khai.
Diêu tri nhị nguyệt xuân giang khoát,
Vân lãng đảo quyển vân phong tồi.
Thạch trung vô thanh thuỷ diệc tĩnh,
Vân hà giải chuyển không sơn lôi.
Dục tựu chư công bình thử ngữ,
Yếu thức ưu hỉ hà tùng lai.
Nguyện cầu Nam tông nhất điếu thuỷ,
Vãng dữ Khuất Giả tiên dư ai.
Dịch nghĩa
Nét thanh xuân nở rộ như rượu nồng trinh nguyên chưa lọc,
Mà rừng táo ẩn dật đã chưa gieo trồng trong bụng.
Đan sa cũng chưa dễ gì quét sạch tóc bạc,
Kiếm xích tùng rồi lại muốn hỏi đạo với Hoàng Mai.
Dòng suối lạnh vẫn chỉ riêng nơi bạn bè của Tuệ Viễn,
Sen trắng, tre xanh, vẫn còn cao xa diệu vợi.
Lúc bấy giờ suối đá chiếu tượng vàng,
Ban đêm thần quang rực rỡ trên Ngũ Đài.
Uống nước suối, soi mặt, mà thấy được chân ý,
Ngồi coi vạn vật đều như bụi mờ.
Những dọn cảnh trời chiều trở về ruộng rẫy,
Rong xa cùng sông nước, đi suốt cùng rặng núi Ly Đôi.
Nay trở về triều, đâu chỉ thẹn vì tuổi già và yếu kém,
Mà sầu khô vì tài đã hết, đã dốc cạn chén không.
Các bạn phơi phới như căn nhà rộng,
Nuốt nhả đầy gió trăng sông núi thanh cao.
Còn tôi như giếng bỏ lâu không dùng,
Thành giếng gãy đổ, rêu mờ phủ kín.
Vài câu thơ qua lại gợi nhớ mà thôi,
Uống cái mới, trừ cái cũ, ánh sáng lạnh lẽo mở ra vắng vẻ.
Trời tháng hai, ngoài kia con nước mùa xuân lai láng,
Sóng cuồn cuộn đổ rầm như gió tuôn ào ạt.
Đá im hơi dòng nước lặng như tờ,
Làm sao nghe được tiếng sấm dậy trên rừng hoang?
Muốn gặp các bác bình việc đó,
Để biết cái vui buồn từ đâu mà lại.
Chỉ mong một giọt nước đạo Thiền đốn ngộ,
Cùng Khuất Nguyên, Giả Nghị, rửa sạch mọi u sầu.
Thập nguyệt nhị nhật sơ đáo Huệ Châu
十月二日初到惠州
彷彿曾遊豈夢中,
欣然雞犬識新豐。
吏民驚怪坐何事,
父老相攜迎此翁。
蘇武豈知還漠北,
管寧自欲老遼東。
嶺南萬戶皆春色,
會有幽人客寓公。
Thập nguyệt nhị nhật sơ đáo Huệ Châu
Phảng phất tằng du khởi mộng trung,
Hân nhiên kê khuyển thức tân phong.
Lại dân kinh quái toạ hà sự,
Phảng phất hụ lão tương huề nghênh thử ông.
Tô Vũ khởi tri hoàn mạc bắc,
Quản Ninh tự dục lão Liêu Đông.
Lĩnh Nam vạn hộ giai xuân sắc,
Hội hữu u nhân khách ngụ công.
Thập nhị nguyệt thập tứ nhật dạ vi tuyết minh nhật tảo vãng
十二月十四日夜微雪明日早往南溪小酌至晚
南溪得雪真無價,
走馬來看及未消。
獨自披榛尋履跡,
最先犯曉過朱橋。
誰憐破屋眠無處,
坐覺村飢語不囂。
惟有暮鴉知客意,
驚飛千片落寒條。
Thập nhị nguyệt thập tứ nhật dạ vi tuyết minh nhật tảo vãng Nam khê tiểu chước chí vãn
Nam khê đắc tuyết chân vô giá,
Tẩu mã lai khan cập vị tiêu.
Độc tự phi trăn tầm lý tích,
Tối tiên phạm hiểu quá chu kiều.
Thuỳ liên phá ốc miên vô xứ,
Toạ giác thôn cơ ngữ bất hiêu.
Duy hữu mộ nha tri khách ý,
Kinh phi thiên phiến lạc hàn điều.
Thiên cư Lâm Cao đình
遷居臨臯亭
我生天地間,
一蟻寄大磨。
區區欲右行,
不救風輪左。
雖雲走仁義,
未免違寒餓。
劍米有危炊,
針氈無穩坐。
豈無佳山水,
借眼風雨過。
歸田不待老,
勇決凡幾個。
幸茲廢棄余,
疲馬解鞍馱。
全家占江驛,
絕境天為破。
饑貧相乘除,
未見可吊賀。
淡然無憂樂,
苦語不成些。
Thiên cư Lâm Cao đình
Ngã sinh thiên địa gian,
Nhất nghĩ ký đại má (ma).
Khu khu dục hữu hành,
Bất cứu phong luân tả.
Tuy vân tẩu nhân nghĩa,
Vị miễn vi hàn ngã.
Kiếm mễ hữu nguy xuy,
Châm chiên vô ổn toạ.
Khởi vô giai sơn thuỷ,
Tá nhãn phong vũ quá.
Quy điền bất đãi lão,
Dũng quyết phàm kỷ cá.
Hạnh tư phế khí dư,
Bì mã giải yên đạ (đà).
Toàn gia chiêm giang dịch,
Tuyệt cảnh thiên vi phá.
Cơ bần tương thừa trừ,
Vị kiến khả điếu hạ.
Đạm nhiên vô ưu nhạc,
Khổ ngữ bất thành tá (ta).
Thiên Trúc tự
天竺寺
香山居士留遺跡,
天竺禪師有故家。
空詠連珠吟疊璧,
已亡飛鳥失驚蛇。
林深野桂寒無子,
雨浥山姜病有花。
四十七年真一夢,
天涯流落淚橫斜。
Thiên Trúc tự
Hương Sơn cư sĩ lưu di tích,
Thiên Trúc thiền sư hữu cố gia.
Không vịnh liên châu ngâm điệp bích,
Dĩ vong phi điểu thất kinh xà.
Lâm thâm dã quế hàn vô tử,
Vũ ấp sơn khương bệnh hữu hoa.
Tứ thập thất niên chân nhất mộng,
Thiên nhai lưu lạc lệ hoành tà.
Trên đây là những bài thơ hay của Tô Đông Pha mà chúng tôi đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn. Có thể nói hồn thơ của ông rất hay và độc đáo. Bên cạnh các áng văn thơ về thời thế lúc bấy giờ ông còn có nhiều bài thơ viết với giọng điệu mỉa mai châm biến. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay bạn nhé!