Tô Đông Pha sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học, người sành ăn. Tô Đông Pha nhân cách cao quý, việc tốt truyền đời, tình yêu tuyệt vời, thơ văn kiệt tác, thư pháp lừng lẫy, miếng ngon nhớ lâu, Tô Đông Pha là vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân văn
Ông được sinh ra trong một gia đình mà người đương thời gọi là Tam Tô. Bởi đây là môt gia đình đều là đại gia thi văn. Thái độ của ông rất hảo sảng, lạc quan dẫu cho ông nhiều lần thăng giáng. Chính điều này cũng đã được phản ánh một cách sâu sắc trong thơ của ông. Đó là sự hào phóng, tình tứ.
Dưới đây là những bài thơ hay nhất của Tô Đông Pha mà tapchivannghe.com đã chọn lọc và muốn chia sẻ với bạn.
Thiệu Bá đại chung minh
邵伯埭鐘銘
無量智慧火,
燒此無明銅。
戒定以為模,
鑄成無漏鐘。
以汝平等手,
執彼慈悲撞。
聲從無有出,
遍滿無邊空。
Thiệu Bá đại chung minh
Vô lượng trí tuệ hoả,
Thiêu thử vô minh đồng.
Giới định dĩ vi mô,
Chú thành vô lậu chung.
Dĩ nhữ bình đẳng thủ,
Chấp bỉ từ bi chàng.
Thanh tòng vô hữu xuất,
Biến mãn vô biên không.
Thính Hiền sư cầm
聽賢師琴
大絃春溫和且平,
小絃廉折亮以清。
平生未識宮與角,
但聞牛鳴盎中雉登木。
門前剝啄誰叩門,
山僧未閑君勿嗔。
歸家且覓千斛水,
淨洗從前箏笛耳。
Thính Hiền sư cầm
Đại huyền xuân ôn hoà thả bình,
Tiểu huyền liêm chiết lượng dĩ thanh.
Bình sinh vị thức cung dữ giác,
Đãn văn ngưu minh áng trung trĩ đăng mộc.
Môn tiền bác trác thuỳ khấu môn,
Sơn tăng vị nhàn quân vật sân.
Quy gia thả mịch thiên hộc thuỷ,
Tịnh tẩy thung tiền tranh địch nhĩ.
Dịch nghĩa
Dây lớn toả hơi ấm mùa xuân, vừa thong thả vừa nhịp nhàng,
Dây nhỏ nghe thanh thót, gãy gọn, mà trong sáng.
Bình sinh, tôi chưa biết cung và giốc là gì,
Chỉ nghe tiếng trâu rống trong ang sành, con chim sẻ đậu trên cây.
Tiếng ai đang gõ trước cửa nhà,
Sư chưa được rảnh, ngài đừng giận!
Về nhà, hãy kiếm một nghìn thùng nước,
Rửa sạch cái lỗ tai vướng những tiếng tranh tiếng sáo trước kia.
Thụ kinh đài
授經臺
劍舞有神通草聖,
海山無事化琴工。
此臺一覽秦川小,
不待傳經意已空。
Thụ kinh đài
Kiếm vũ hữu thần thông thảo thánh,
Hải sơn vô sự hoá cầm công.
Thử đài nhất lãm Tần xuyên tiểu,
Bất đãi truyện kinh ý dĩ không.
Dịch nghĩa
Những ngọn cỏ với dáng dấp cao kỳ như thánh, khi đong đưa, trông như những ngọn thần kiếm đang vũ lộng,
Núi và sông, nhàn rỗi vô sự, tự nhiên trở thành những tay thợ đàn.
Chỉ một lần nhìn thấy đài này rồi, cả một dãy Tần Xuyên thành ra nhỏ bé,
Không phải đợi nghe được lời kinh, mà ý đã là không.
Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 1
次韻孔毅甫久旱已而甚雨其一
飢人忽夢飯甑溢,
夢中一飽百憂失。
只知夢飽本來空,
未悟真飢定何物。
我生無田食破硯,
爾來硯枯磨不出。
去年太歲空在酉,
傍舍壺漿不容乞。
今年旱勢復如此,
歲晚何以黔吾突。
青天蕩蕩呼不聞,
況欲稽首號泥佛。
甕中蜥蜴尤可笑,
跂跂脈脈何等秩。
陰陽有時雨有數,
民是天民天自卹。
我雖窮苦不如人,
要亦自是民之一。
形容可似喪家狗,
未肯聑耳爭投骨。
倒冠落幘謝朋友,
獨與蚊雷共圭蓽。
故人嗔我不開門,
君視我門誰肯屈。
可憐明月如潑水,
夜半清光翻我室。
風從南來非雨候,
且為疲人洗蒸鬱。
褰裳一和快哉謠,
未暇飢寒念明日。
Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 1
Cơ nhân hốt mộng phạn tắng dật,
Mộng trung nhất bão bách ưu thất.
Chỉ tri mộng phạn bản lai không,
Vị ngộ chân cơ thị hà vật.
Ngã sinh vô điền thực phá nghiễn,
Nhĩ lai nghiễn khô ma bất xuất.
Khứ niên thái tuế không tại dậu,
Bàng xá hồ tương bất dụng khất.
Kim niên hạn tuế phục như thử,
Tuế vãn hà dĩ kiềm ngô đột.
Thanh thiên đãng đãng hô bất văn,
Huống dục khê thủ hào nê Phật.
Úng trung tích dịch vưu khả tiếu,
Kỳ kỳ mạch mạch hà đẳng trật.
Âm dương hữu thì vũ hữu số,
Dân thị thiên dân thiên tự tuất.
Ngã tuy cùng khổ bất như nhân,
Yếu diệc tự thị dân chi nhất.
Hình dung tuy thị táng gia cẩu,
Vị khẳng nhị nhĩ tranh đầu cốt.
Đảo quán lạc trách tạ bằng hữu,
Độc dữ văn lôi cọng khuê tất.
Cố nhân sân ngã bất khai môn,
Quân thị ngã môn thuỳ khẳng khuất.
Khả liên minh nguyệt như bát thuỷ,
Dạ bán thanh quang phiên ngã thất.
Phong tùng nam lai phi vũ hầu,
Thả vị bì nhân tẩy chưng uất.
Khiên thường nhất hoạ khoái tai dao,
Vị hạ cơ hàn niệm minh nhật.
Dịch nghĩa
Người đói bỗng nằm mộng thấy bát cơm đầy,
Một bữa no trong cơn mộng mà một trăm nỗi ưu phiền tiêu tất cả.
Chỉ biết rằng cái no trong mộng bản lai là không,
Chứ chưa tỏ ngộ được cái đói thực sự là cái gì.
Tôi sinh ra không có ruộng, kiếm ăn bằng nghiên mực mẻ,
Từ lâu nghiên mực đã khô, mài không ra.
Năm ngoái sao Thái tuế nằm trơ tại dậu,
Nhà bên cạnh, một lọ tương cũng không chịu xin.
Mà năm nay, cái thế hạn lại như vậy,
Cuối năm, lấy gì nấu cho đen ống khói nhà tôi?
Trời xanh vòi vọi, kêu không thấu,
Còn lại muốn cúi đầu réo Phật đất nữa ư?
Con thằn lằn trong vò lại đáng nực cười,
Bò tới bò lui lịch kịch, chẳng ra đầu đuôi gì cả.
Âm dương có thời, mưa gió có số,
Dân là dân của trời, trời phải thương.
Tôi tuy cùng khổ, chẳng hơn được ai,
Nhưng cũng là một người trong đám dân đó.
Hình dung tuy như con chó nhà ma,
Nhưng chưa chịu vểnh tai dành cái mẩu xương vứt ra đó.
Bứt giải, lột mũ, tạ bạn bè,
Một mình cùng với lũ ruồi, chúng kêu vo vo như sấm, bu lại trên đám hành.
Bạn bè giận tôi không mở cửa,
Nhưng ngài thử coi, ai khứng nghiêng mình trước cửa nhà tôi?
Chỉ thương tình trăng ngây thơ tuôn ánh sáng như nước xối,
Nửa đêm đổ ánh sáng mát lọt vào nhà ta.
Gió từ nam thổi tới, chưa phải là lúc có mưa,
Nhưng cũng vì cái người mệt mỏi mà rửa sách những nực nội ấm ức trong lòng.
Vén tay áo đáp lại bằng một bài dao: rằng sướng thay!
Nhưng chưa một thoáng, lại nghĩ tới chuyện đói no ngày mai.
Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 2
次韻孔毅甫久旱已而甚雨其二
去年東坡拾瓦礫,
自種黃桑三百尺。
今年刈草蓋雪堂,
日炙風吹面如墨。
平生懶惰今始悔,
老大勸農天所直。
沛然例賜三尺雨,
造物無心怳難測。
四方上下同一雲,
甘霪不為龍所隔。
蓬蒿下濕迎曉耒,
燈火新涼催夜織。
老夫作罷得甘寢,
臥聽牆東人響屐。
奔流未已坑谷平,
折葦枯荷恣漂溺。
腐儒麤糲支百年,
力耕不受眾目憐。
破陂漏水不耐旱,
人力未至求天全。
會當作塘徑千步,
橫斷西北遮山泉。
四鄰相率助舉杵,
人人知我囊無錢。
明年共看決渠雨,
飢飽在我寧關天。
誰能伴我田間飲,
醉倒惟有支頭磚。
Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 2
Khứ niên đông pha thập ngoã lịch,
Tự chủng hoàng tang tam bách xích.
Kim niên ngải thảo cái tuyết đường,
Nhật chích phong xuy diện như mặc.
Bình sinh lại đoạ kim thuỷ hối,
Lão đại cần nông thiên sở trực.
Phái nhiên lệ tứ tam xích vũ,
Tạo hoá vô tâm hoảng nan trắc.
Tứ phương thượng hạ đồng nhất vân,
Cam chú bất vi long sở cách.
Bồng cao hạ thấp nghinh hiểu lỗi,
Đăng hoả tân lương thôi dạ chức.
Lão phu tác bãi đắc cam tẩm,
Ngoạ thính tường đông nhân hưởng kịch.
Bôn lưu vị dĩ khanh cốc bình,
Chiết vi khô hà tứ phiêu nịch.
Hủ nho thô lệ chi bách niên,
Lực canh bất thọ chúng mục liên.
Pha pha lậu thuỷ bất nại hạn,
Nhân lực vị chí cầu thiên toàn.
Hội đương tác đường kính thiên bộ,
Hoành đoạn tây bắc già sơn tuyền.
Tứ lân tương suất trợ cử xử,
Nhân nhân tri ngã nang vô tiền.
Minh niên cọng khan quyết cừ vũ,
Cơ bão tại ngã ninh quan thiên.
Thuỳ năng bạn ngã điền gian ẩm,
Tuý đảo duy hưu chi đầu chuyên.
Dịch nghĩa
Năm ngoái, dọn gạch ngói tại đông pha,
Tự trồng dâu trong ba trăm thước đất.
Năm này cắt cỏ lợp nhà tuyết,
Nắng rám, gió thổi, mặt đen như mực.
Bình sinh biếng nhác, nay mới hối,
Già nua mà chăm chỉ làm ruộng, nên trời thương.
Chiếu lệ đổ mưa rầm rầm, cao ba thước,
Tạo hoá vô tâm, mù mờ khó lường nổi.
Mây cả một vùng, khắp bốn phía, từ trên đến dưới,
Đổ mưa dầm không ngớt, không cho rồng nghỉ ngơi.
Sớm mai, lau sậy dưới đất trùng đã đón lưỡi cày,
Đèn lửa sáng tươi trở lại, thúc giục người ta dệt vải ban đêm.
Lão phu làm ruộng xong được một giấc ngon,
Nằm nghe bên tường đông có người khua tiếng guốc.
Nước chảy chưa bao lâu, hầm hố đầy cả,
Lau gãy, sen héo, mặc tình chìm nổi.
Hủ nho giã gạo thô tưởng chừng một trăm năm chưa chắc xong,
Ra sức cày, mà cày không nổi, con mắt mọi người trông thấy mà thương.
Bờ ruộng vỡ, nước chảy tràn vào, bất kể trời hạn,
Sức người chưa ra hết sực, lại phải cầu trời làm trọn cho, mới mong!
Lại phải đào ao, dài một nghìn bộ,
Nằm ngang cắt đôi tây bắc, cản suối trên đổ xuống.
Hàng xóm kéo nhau đến giúp tay, nhắc hộ cái chày!
Ai ai cũng biết túi tôi không mống tiền.
Sang năm rồi coi, mưa sẽ làm vỡ con kênh đó!
Đói no tại ta, mắc chi đến trời?
Ai có thể ngồi uống rượu với ta giữa ruộng?
Đó là viên sỏi đầu ngã ba, nó đã say nghiêng ngửa.
Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 3
次韻孔毅甫久旱已而甚雨其三
天公號令再不出,
十日愁霖併為一。
君家有田水冒田,
我家無田憂入室。
不如西州楊道士,
萬里隨身惟兩膝。
沿流不惡斥亦佳,
一葉扁舟任風突。
山芎麥麴都不用,
泥行露宿終無疾。
夜來飢腸如轉雷,
旅愁非酒不可開。
楊生自言識音律,
洞蕭入手清且哀。
不須更待秋井塌,
見人白骨方銜杯。
Thứ vận Khổng Nghị Phủ “Cửu hạn dĩ nhi thậm vũ” kỳ 3
Thiên công hiệu lệnh tái bất xuất,
Thập nhật sầu lâm tính vi nhất.
Quân gia hữu điền thuỷ mạo điện,
Ngã gia vô điền ưu nhập thất.
Bất như Tây châu Dương đạo sĩ,
Vạn lý tuỳ thân duy lưỡng tất.
Duyên lưu bất ố tố diệc giai,
Nhất diệp biển chu nhiệm phong đột.
Sơn khung mạch khúc đô bất dụng,
Nê hành lộ túc chung vô tật.
Dạ lai cơ trường như chuyển lôi,
Lữ sầu phi tửu bất khả khai.
Dương sinh tự ngôn thức âm luật,
Động tiêu nhập thủ thanh thả ai.
Bất tu cánh đãi thu tỉnh sáp,
Kiến nhân bạch cốt phương hàm bôi.
Dịch nghĩa
Ông trời không ban hiệu lệnh mưa nữa,
Mưa một lần suốt luôn mười hôm, dầm dề ủ dột.
Nhà bác có ruộng, nước tuôn ngập ruộng,
Nhà tôi không ruộng lại lo nước tràn lên thềm.
Chẳng bằng như Dương đạo sĩ ở Tây châu,
Đi hàng vạn dăm, chỉ theo mình hai cái đầu gối.
Xuôi dòng không ghét, ngược dòng cũng tốt,
Một mảng thuyền, mặc tình trôi.
Cỏ thuốc rừng, rượu bếp tẻ, đều không cần,
Lội bùn, ngủ sương, không vội vã.
Nhưng đêm đến, bụng đói, kêu như sấm,
Thì cái sầu cô lữ, không rượu, làm sao nguôi?
Lão Dương tự cho giỏi âm luật,
Đưa sáo vào tay, tiếng nghe trong mà buồn.
Khỏi đợi giếng mùa thu vỡ nước,
Thấy người xương trắng mới ngậm chén.
Thứ vận tăng Tiềm kiến tặng
次韻僧潛見贈
道人胸中水鏡清,
萬象起滅無逃形。
獨依古寺種秋菊,
要伴騷人餐落英。
人間底處有南北,
紛紛鴻雁何曾冥。
閉門坐穴一禪榻,
頭上歲月空崢嶸。
今年偶出為求法,
欲與慧劍加礱硎。
雲衲新磨山水出,
霜髭不翦兒童驚。
公侯欲識不可得,
故知倚市無傾城。
秋風吹夢過淮水,
想見橘柚垂空庭。
故人各在天一角,
相望落落如晨星。
彭城老守何足顧,
棗林桑野相邀迎。
千山不憚荒店遠,
兩腳欲趁飛猱輕。
多生綺語磨不盡,
尚有宛轉詩人情。
猿吟鶴唳本無意,
不知下有行人行。
空階夜雨自清絕,
誰使掩抑啼孤煢。
我欲仙山掇瑤草,
傾筐坐嘆何時盈。
簿書鞭撲晝填委,
煮茗燒栗宜宵征。
乞取摩尼照濁水,
共看落月金盆傾。
Thứ vận tăng Tiềm kiến tặng
Đạo nhân hung trung thuỷ kính thanh,
Vạn tượng khởi diệt vô đào hình.
Độc y cổ tự chủng thu cúc,
Yếu bạn tao nhân xan lạc anh.
Nhân gian để xứ hữu nam bắc,
Phân phân hồng nhạn hà tằng minh.
Bế môn toạ huyệt nhất thiền tháp,
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh.
Kim niên ngẫu xuất vị cầu pháp,
Dục dữ tuệ kiếm gia lung hình.
Vân nạp tân ma sơn thuỷ xuất,
Sương tỳ bất tiễn nhi đồng kinh.
Công hầu dục thức bất khả đắc,
Cố tri ỷ thị vô khuynh thành.
Thu phong xuy mộng quá Hoài thuỷ,
Tưởng kiến quất trục thuỳ không đình.
Cố nhân các tại thiên nhất giác,
Tương vọng lạc lạc như thần tinh.
Bành Thành lão thủ hà túc cố,
Tảo lâm tang dã tương yêu nghinh.
Thiên sơn bất đạn hoang điếm viễn,
Lưỡng cước dục sấn phi nhu khinh.
Đa sinh ỷ ngữ ma bất tận,
Thượng hữu uyển chuyển thi nhân tình.
Viên ngâm hạc lệ bản vô ý,
Bất tri hạ hữu hành nhân hành.
Không giai dạ vũ tự thanh tuyệt,
Thuỳ sử yểm ức đề cô quỳnh.
Ngã dục tiên sơn xuyết dao thảo,
Khuynh khuông toạ thán hà thì doanh.
Bạ thư tiên phác trú điền uỷ,
Chử minh thiêu lật nghi tiêu chinh.
Khất thủ ma ni chiếu trọc thuỷ,
Cộng khán lạc nguyệt kim bồn khuynh.
Thực lệ chi
食荔枝
羅浮山下四時春,
蘆橘楊梅次第新。
日啖荔枝三百顆,
不辭長作嶺南人。
Thực lệ chi
La Phù sơn hạ tứ thì xuân,
Lô quất dương mai thứ đệ tân.
Nhật đạm lệ chi tam bách khoả,
Bất từ trường tác Lĩnh Nam nhân.
Thượng nguyên quá Tường Phù tăng Khả Cửu phòng, tiêu nhiên vô đăng hoả
上元過祥符僧可久房蕭然無燈火
門前歌舞鬥分朋,
一室清風冷欲冰。
不把琉璃閑照佛,
始知無盡本無燈。
Thượng nguyên quá Tường Phù tăng Khả Cửu phòng, tiêu nhiên vô đăng hoả
Môn tiền ca vũ đấu phân bằng,
Nhất thất thanh phong lãnh dục băng.
Bất bả lưu ly nhàn chiếu phật,
Thuỷ tri vô tận bản vô đăng.
Thượng nguyên thị yến
上元侍宴
淡月疏星繞建章,
仙風吹下御爐香。
侍臣鵠立通明殿,
一朵紅雲捧玉皇。
Thượng nguyên thị yến
Đạm nguyệt sơ tinh nhiễu Kiến Chương,
Tiên phong xuy há ngự lô hương.
Thị thần hộc lập Thông Minh điện,
Nhất đoá hồng vân phủng Ngọc Hoàng.
Dịch nghĩa
Sao thưa, trăng nhạt vây quanh điện Kiến Chương,
Gió tiên thổi làm ngát mùi hương của lò trầm nơi cung đình.
Các quan hầu đứng như hàng chim hộc ở điện Thông Minh,
Như một vầng mây hồng nâng Ngọc Hoàng.
Tịch thượng đại nhân tặng biệt kỳ 1
席上代人贈別其一
淒音怨亂不成歌,
縱使重來奈老何。
淚眼無窮似梅雨,
一番勻了一番多。
Tịch thượng đại nhân tặng biệt kỳ 1
Thê âm oán loạn bất thành ca,
Túng sử trùng lai nại lão hà.
Lệ nhãn vô cùng tự mai vũ,
Nhất phiên quân liễu nhất phiên đa.
Tịch thượng đại nhân tặng biệt kỳ 2
席上代人贈別其二
天上麒麟豈混塵,
籠中翡翠不由身。
那知昨夜香閨裡,
更有偷啼暗別人。
Tịch thượng đại nhân tặng biệt kỳ 2
Thiên thượng kì lân khởi hỗn trần,
Lung trung phỉ thuý bất do thân.
Na tri tạc dạ hương khuê lý,
Canh hữu thâu đề ám biệt nhân.
Tịch thượng đại nhân tặng biệt kỳ 3
席上代人贈別其三
蓮子劈開須見臆,
楸枰著盡更無期。
破衫卻有重逢處,
一飯何曾忘卻時。
Tịch thượng đại nhân tặng biệt kỳ 3
Liên tử phách khai tu kiến ức,
Thu bình trứ tận cánh vô kỳ.
Phá sam khước hữu trùng phùng xứ,
Nhất phạn hà tằng vong khước thì.
Tống Tử Do sứ Khiết Đan
送子由使契丹
雲海相望寄此身,
那因遠適更沾巾。
不辭驛騎凌風雪,
要使天驕識鳳麟。
沙漠回看清禁月,
湖山應夢武林春。
單于若問君家世,
莫道中朝第一人。
Tống Tử Do sứ Khiết Đan
Vân hải tương vong ký thử thân,
Na nhân viễn thích cánh triêm cân.
Bất từ dịch kỵ lăng phong tuyết,
Yếu sử thiên kiêu thức phụng lân.
Sa mạc hồi khan Thanh cấm nguyệt,
Hồ sơn ứng mộng Vũ lâm xuân.
Thiên vu nhược vấn quân gia thế,
Mạc đạo trung triều đệ nhất nhân.
Dịch nghĩa
Người từ biển đông trông sang, người từ mây bắc ngó lại,
Đường xa xôi và tình đẫm mấy lần khăn.
Vượt gió tuyết qua mấy trùng quán trọ,
Cho giặc trời trông rõ mặt phượng lân.
Trăng Thanh cấm trên kia vùng sa mạc,
Trời Vũ lâm in mộng triệu sông hồ.
Thiền vu nếu hỏi gia thế chú,
Đừng nói trong triều đệ nhất nhân.
Tô Đông Pha là người có tài nhất trong Bát đại gia của Trung Hoa từ thế kỷ 7 cho tới thế ký 13. Tuy ông rất sùng bái tư tưởng đạo Nho và có chí giúp nước nhưng nó cũng khá mâu thuẫn. Và cuộc đời của ông chịu ảnh hưởng cả Nho lẫn lão, và phật. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao tâm hồn thơ của ông lại khoáng đạt như vậy. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay bạn nhé!