Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học.
Ông là một người rất tài năng. Cả cuộc đời của mình ông đã sáng tác rất nhiều bài thơ và các thể loại khác. Con số thống kê cho thấy ông đã sáng tác khoảng 4000 bài thơ, 300 bài từ, tản văn rất nhiều bài hay.
Hôm Nay, tapchivannghe.com sẽ giới thiệu đến các bạn những sáng tác nổi tiếng nhất của ông, cùng theo dõi nhé!
Trần châu
Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học白酒無聲滑瀉油,
醉行堤上散無愁。
春風料峭羊角轉,
河水渺綿瓜蔓流。
君已思歸夢巴峽,
我能未到說黃州。
此身聚散何窮已,
未忍悲歌學楚囚。
Trần châu
Bạch tửu vô thanh hoạt tả du,
Tuý hành đê thượng tản vô sầu.
Xuân phong liệu tiễu Dương Giác chuyển,
Hà thuỷ diểu miên qua mạn lưu.
Quân dĩ tư quy mộng Ba Giáp,
Ngã năng vị đáo thuyết Hoàng Châu.
Thử thân tụ tán hà cùng dĩ,
Vị nhẫn bi ca học Sở tù.
Dịch nghĩa
Rượu trắng không lời (ca) rót xuống trơn như dầu,
Say bước lên bờ đê tản mạn không buồn rầu.
Gió xuân ve vuốt ngọn núi cao, sao Giác di chuyển,
Nước Hoàng Hà trắng như bông theo nhau trôi chảy.
Anh đã nghĩ đến ngày về, mơ mộng đất Ba Thục,
Tôi tuy chưa đến (Hoàng Châu) nhưng nói về Hoàng Châu.
Thân này họp nhau rồi ly biệt cuối cùng biết về đâu
Chưa chịu được những khúc ca buồn để học như người tù nước Sở.
Trần Lệnh Cử ai từ
陳令舉哀詞
生芻不獨比前人,
束槁端能廢謝鯤。
子達想無身後念,
吾衰不復夢中論。
已知毅豹為均死,
未識荊凡定孰存。
堪笑東坡癡鈍老,
區區猶記刻舟痕。
Trần Lệnh Cử ai từ
Sinh sô bất độc bỉ tiền nhân,
Thúc cảo đoan năng phế Tạ Côn.
Tử đạt tưởng vô thân hậu niệm,
Ngô suy bất phục mộng trung luân.
Dĩ tri Nghị Báo vi quân tử,
Vị thức Kinh Phàm định thục tồn.
Kham tiếu Đông Pha si độn lão,
Khu khu do ký khắc chu ngân.
Trần Quý Thường sở súc Chu Trần thôn giá thú đồ
陳季常所蓄朱陳村嫁娶圖
我是朱陳舊使君,
勸耕曾入杏花村。
而今風物那堪畫,
縣吏催錢夜打門。
Trần Quý Thường sở súc Chu Trần thôn giá thú đồ
Ngã thị Chu Trần cưu sứ quân,
Khuyến canh tằng nhập Hạnh Hoa thôn.
Nhi kim phong vật na kham hoạ,
Huyện lại thôi tiền dạ đả môn.
Dịch nghĩa
Ta là sứ quân cũ của đất Chu Trần,
Từng vào thôn Hạnh Hoa khuyến khích nghề nông.
Cảnh vật ngày nay làm sao mà vẽ nổi,
Đêm quan huyện đến đập cửa thúc tiền.
Trúc diệp tửu
竹葉酒
楚人汲漢水,
釀酒古宜城。
春風吹酒熟,
猶似漢江清。
耆舊何人在,
丘墳應已平。
惟餘竹葉在,
留此千古情。
Trúc diệp tửu
Sở nhân cấp Hán thuỷ,
Nhưỡng tửu Cổ Nghi thành.
Xuân phong xuy tửu thục,
Do tự Hán giang thanh.
Kỳ cựu hà nhân tại,
Khâu phần ứng dĩ bình.
Duy dư trúc diệp tại,
Lưu thử thiên cổ tình.
Tú Châu Báo Bản thiền viện hương tăng Văn trưởng lão phương trượng
秀州報本禪院鄉僧文長老方丈
萬里家山一夢中,
吳音漸已變兒童。
每逢蜀叟談終日,
便覺峨眉翠掃空。
師已忘言真有道,
我除搜句百無功。
明年採藥天台去,
更欲題詩滿浙東。
Tú Châu Báo Bản thiền viện hương tăng Văn trưởng lão phương trượng
Vạn lý gia sơn nhất mộng trung,
Ngô âm tiệm dĩ biến nhi đồng.
Mỗi phùng Thục tẩu đàm chung nhật,
Tiện giác Nga My thuý tảo không.
Sư dĩ vong ngôn chân hữu đạo,
Ngã trừ sưu cú bách vô công.
Minh niên thái dược Thiên Thai khứ,
Cánh dục đề thi mãn Triết Đông.
Dịch nghĩa
Quê xa vạn dặm trong giấc mơ
Pha giọng Ngô như đứa trẻ học nói
Mỗi khi gặp được già Thục chuyện cả ngày
Như thấy núi Nga My cao vút trời
Thầy đã quên cả lời nói đúng là người có đạo
Ta ngoài tìm câu cú ra, trăm thứ chẳng nên gì
Sang năm có đến hái thuốc ở Thiên Thai
Cứ muốn đề thơ khắp cả Chiết Đông
Túc Châu thứ vận Lưu Kinh
宿州次韻劉涇
我欲歸休瑟漸希,
舞雩何日著春衣!
多情白髮三千丈,
無用蒼皮四十圍。
晚覺文章真小伎,
早知富貴有危機。
為君垂涕君知否?
千古華亭鶴自飛。
Túc Châu thứ vận Lưu Kinh
Ngã dục quy hưu sắt tiệm hy,
Vũ Vu hà nhật trước xuân y!
Đa tình bạch phát tam thiên trượng,
Vô dụng thương bì tứ thập vi.
Vãn giác văn chương chân tiểu kỹ,
Tảo tri phú quý hữu nguy ky (cơ).
Vị quân thuỳ thế, quân tri phủ,
Thiên cổ hoa đình hạc tự phi.
Dịch nghĩa
Ta muốn bỏ quan về nghỉ, tiếng đàn sắt dần thưa thớt,
Biết ngày nào mới mặc áo xuân tới đình Vũ Vu!
Tóc trắng đa tình dài ba ngàn trượng,
Da xanh xao vô dụng dày bốn chục lớp.
Khi già mới hiểu rằng văn chương chỉ là kỹ xảo nhỏ,
Sớm đã biết rằng phú quý tàng chứa nguy cơ.
Vì anh mà rơi lệ, anh có biết hay không?
Từ ngàn xưa hạc vẫn một mình bay ở nơi đình hoa lệ.
Tự đề Kim Sơn hoạ tượng
自題金山畫象
心似已灰之木,
身如不繫之舟。
問汝平生功業,
黃州惠州儋州。
Tự đề Kim Sơn hoạ tượng
Tâm tự dĩ hôi chi mộc,
Thân như bất hệ chi chu.
Vấn nhữ bình sinh công nghiệp,
Hoàng Châu, Huệ Châu, Đam Châu!
Tự Thanh Bình trấn du Lâu Quán, Ngũ Quận, Đại Tần, Diên Sinh, Tiên Du, vãng phản tứ nhật đắc thập nhất thi ký xá đệ Tử Do đồng tác – Lâu Quán
自清平鎮遊樓觀五郡大秦延生仙遊往返四日得十一詩寄舍弟子由同作-樓觀
鳥噪猿呼晝閉門,
寂寥誰識古皇尊。
青牛久已辭轅軛,
白鶴時來訪子孫。
山近朔風吹積雪,
天寒落日淡孤村。
道人應怪遊人眾,
汲盡階前井水渾。
Tự Thanh Bình trấn du Lâu Quán, Ngũ Quận, Đại Tần, Diên Sinh, Tiên Du, vãng phản tứ nhật đắc thập nhất thi ký xá đệ Tử Do đồng tác – Lâu Quán
Điểu táo viên hô trú bế môn,
Tịch liêu thuỳ thức cổ hoàng tôn.
Thanh ngưu cửu dĩ từ viên ách,
Bạch hạc thì lai phỏng tử tôn.
Sơn cận sóc phong xuy tích tuyết,
Thiên hàn lạc nhật đạm cô thôn.
Đạo nhân ưng quái du nhân chúng,
Cấp tận giai tiền tỉnh thuỷ hỗn.
Dịch nghĩa
Chim gào vượn hú; ban ngày vẫn đóng cửa.
Đìu hiu vắng vẻ, ai biết ngài Cổ hoàng tôn đi đâu?
Con trâu xanh của ngài, từ lâu đã cởi bỏ cái ách, cái gọng,
Và bây giờ, con hạc trắng bay đến hỏi thăm con cháu.
Núi gần đó, gió bấc thổi tung những đống tuyết,
Trời lạnh, mặt trời ngã bóng nhạt trên xóm vắng.
Có lẽ đạo nhân lấy làm lạ, sao du khách đông thế!
Họ uống sạch hết cả một giếng nước phía trước sân.
Ư Tiềm tăng Lục Quân hiên
於潛僧綠筠軒
可使食無肉,
不可居無竹。
無肉令人瘦,
無竹令人俗。
人瘦尚可肥,
士俗不可醫。
旁人笑此言,
似高還似癡。
若對此君欠大嚼,
世間哪有揚州鶴。
Ư Tiềm tăng Lục Quân hiên
Khả sử thực vô nhục,
Bất khả cư vô trúc.
Vô nhục linh nhân sấu,
Vô trúc linh nhân tục.
Nhân sấu thượng khả phì,
Sĩ tục bất khả y.
Bàng nhân tiếu thử ngôn,
Tự cao hoàn tự si.
Nhược đối thử quân khiếm đại tước,
Thế gian na hữu Dương Châu hạc.
Vũ tình hậu, bộ chí Tứ Vọng đình hạ ngư trì thượng, toại tự Càn Minh tự tiền đông cương thượng quy kỳ 1
雨晴後,步至四望亭下魚池上,遂自乾明寺前東岡上歸其一
雨過浮萍合,
蛙聲滿四鄰。
海棠真一夢,
梅子欲嘗新。
拄杖閑挑菜,
秋千不見人。
殷勤木芍葯,
獨自殿餘春。
Vũ tình hậu, bộ chí Tứ Vọng đình hạ ngư trì thượng, toại tự Càn Minh tự tiền đông cương thượng quy kỳ 1
Vũ quá phù bình hợp,
Oa thanh mãn tứ lân.
Hải đường chân nhất mộng,
Mai tử dục thường tân.
Trụ trượng nhàn khiêu thái,
Thu thiên bất kiến nhân.
Ân cần mộc thược dược,
Độc tự điện dư xuân.
Vũ tình hậu, bộ chí Tứ Vọng đình hạ ngư trì thượng, toại tự Càn Minh tự tiền đông cương thượng quy kỳ 2
雨晴後,步至四望亭下魚池上,遂自乾明寺前東岡上歸其二
高亭癈已久,
下有種魚塘。
暮色千山入,
春風百草香。
市橋人寂寂,
古寺竹蒼蒼。
鸛鶴來何處,
號鳴滿夕陽。
Vũ tình hậu, bộ chí Tứ Vọng đình hạ ngư trì thượng, toại tự Càn Minh tự tiền đông cương thượng quy kỳ 2
Cao đình phế dĩ cửu,
Hạ hữu chủng ngư đường.
Mộ sắc thiên sơn nhập,
Xuân phong bách thảo hương.
Thị kiều nhân tịch tịch,
Cổ tự trúc thương thương.
Quán hạc lai hà xứ,
Hiệu minh mãn tịch dương.
Vương Phục tú tài sở cư song cối nhị thủ kỳ 1
王復秀才所居雙檜二首其一
凜然相對敢相欺,
直干凌雲未要奇。
根到九泉無曲處,
世間惟有蟄龍知。
Vương Phục tú tài sở cư song cối nhị thủ kỳ 1
Lẫm nhiên tương đối cảm tương khi,
Trực cán lăng vân vị yếu kỳ.
Căn đáo cửu tuyền vô khúc xứ,
Thế gian duy hữu chập long tri.
Xuân tiêu
春宵
春宵一刻值千金,
花有清香月有陰。
歌管樓臺聲細細,
鞦韆院落夜沈沈
Xuân tiêu
Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim,
Hoa hữu thanh hương nguyệt hữu âm.
Ca quản lâu đài thanh tế tế,
Thu thiên viện lạc dạ trầm trầm.
Dịch nghĩa
Đêm xuân, một khắc giá ngàn vàng,
Hoa có hương thơm trong lành, trăng có bóng.
Tiếng hát, tiếng sáo từ các lâu đài nghe dìu dặt,
Bay lên, rơi xuống trong sân giữa đêm khuya thanh vắng.
Xuất đô lai Trần, sở thừa thuyền thượng hữu đề kỳ 1
出都來陳所乘船上有題其一
蛙鳴青草泊,
蟬噪垂楊浦。
吾行亦偶然,
及此新過雨。
Xuất đô lai Trần, sở thừa thuyền thượng hữu đề kỳ 1
Oa minh thanh thảo bạc,
Thiền táo thuỳ dương phố.
Ngô hành diệc ngẫu nhiên,
Cập thử tân quá vũ.
Trên đây là những bài thở của Tô Đông Pha viết trong tập Thi. Đây là một tập thơ hay và độc đáo của nhà thơ này. Qua đó bạn có thể hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ này, phong cách ấy cũng bộc lộ một phần nào về tính cách ngoài đời của ông, rất táo bạo và ngông . Và đó cũng chính là lý do người đời luôn coi trọng ông và đánh giá ông như là một người nối gót Âu Dương Tu trên văn đàn.