Tô Đông Pha sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học, người sành ăn. Tô Đông Pha có nhân cách cao quý, việc tốt truyền đời, ông có tình yêu tuyệt vời, thơ văn kiệt tác. Tô Đông Pha là vầng trăng cổ tích lồng lộng trên bầu trời nhân văn.
Hãy cùng tapchivannghe.com tìm hiểu những bài thơ hay nhất của Tô Đông Pha nhé !
Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ kỳ 1
飲湖上初晴後雨其一
朝曦迎客艷重岡,
晚雨留人入醉鄉。
此意自佳君不會,
一杯當屬水仙王。
Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ kỳ 1
Triêu hy nghinh khách diễm trùng cương,
Vãn vũ lưu nhân nhập tuý hương.
Thử ý tự giai quân bất hội,
Nhất bôi đương thuộc Thuỷ Tiên vương.
Dịch nghĩa
Nắng mai đón khách rải vẻ tươi thắm trên những sườn núi chập chùng,
Buổi chiều, cơn mưa cầm chân khách, rồi đưa khách vào làng say.
Tình ý đó bộc lộ một cách nồng nàn mà tự nhiên cho những người ngoạn cảnh,
Vậy hãy nâng một chén mời ngài Thuỷ Tiên vương.
Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ kỳ 2
飲湖上初晴後雨其二
水光瀲灩晴方好,
山色空蒙雨亦奇。
欲把西湖比西子,
淡妝濃抹總相宜。
Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ kỳ 2
Thuỷ quang liễm diễm tình phương hảo,
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ.
Dục bả Tây hồ tỷ Tây Tử,
Đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
Dịch nghĩa
Trời vừa hừng, mặt hồ sóng gợn lăn tăn
Mưa bay mịt mờ sắc núi đẹp biết bao
Muốn đem Tây hồ so với Tây Thi
Trang điểm đậm hay nhạt đều đẹp cả.
Bách bộ hồng
百步洪
長洪斗落生跳波,
輕舟南下如投梭。
水師絕叫鳧雁起,
亂石一線爭磋磨。
有如兔走鷹隼落,
駿馬下注千丈坡。
斷絃離柱箭脫手,
飛電過隙珠翻荷。
四山眩轉風掠耳,
但見流沫生千渦。
嶮中得樂雖一快,
何意水伯誇秋河。
我生乘化日夜逝,
坐覺一念逾新羅。
紛紛爭奪醉夢裏,
豈信荊棘埋銅駝。
覺來俯仰失千劫,
回視此水殊委蛇。
君看岸邊蒼石上,
古來篙眼如蜂窠。
但應此心無所住,
造物雖駛如吾何。
回船上馬各歸去,
多言譊譊師所呵。
Bách bộ hồng
Trường hồng đẩu lạc sinh khiêu ba,
Khinh chu nam hạ như đầu thoa.
Thuỷ sư tuyệt khiếu phù nhạn khởi,
Loạn thạch nhất tuyến tranh tha ma.
Hữu như thố tẩu ưng chuẩn lạc,
Tuấn mã hạ chú thiên trượng pha.
Đoạn huyền ly trụ tiễn thoát thủ,
Phi điện quá khích châu phiên hà.
Tứ san huyễn chuyển phong lược nhĩ,
Đãn kiến lưu mạt sinh thiên qua.
Hiểm trung đắc lạc tuy nhất khoái,
Hà ý thuỷ bá khoa thu hà.
Ngã sinh thừa hoá nhật dạ thệ,
Toạ giác nhất niệm du Tân La.
Phân phân tranh đoạt tuý mộng lý,
Khởi tín kinh cức mai đồng đà.
Giác lai phủ ngưỡng thất thiên kiếp,
Hồi thị thử thuỷ thù uỷ đà.
Quân khán ngạn biên thương thạch thượng,
Cổ lai cao nhãn như phong khoa.
Đãn ưng thử tâm vô sở trụ,
Tạo vật tuy sử như ngô hà.
Hồi thuyền thướng mã các quy khứ,
Đa ngôn náo náo sư sở a.
Dịch nghĩa
Trường hồng trút xuống, song nước vọt lên
Thuyền nhẹ lướt về xuôi như thoi đưa
Phu thuyên hò reo, khiến vịt trời bay lên
Nước như đua xối vào giải đá nhấp nhô
Có lúc như ưng nhào thỏ chạy.
Tuấn mã từ trên gò cao nghìn tượng ruổi xuống
Như mũi tên dứt dây, rời trụ lao đi
Như tia chớp qua khe, nước bắn lên lá sen như hạt ngọc
Bốn quả núi di chuyển mờ ảo, gió bạt cả tai
Bọt tung trắng xoá nghìn mắt nước xoáy
Trong nguy hiểm có được niềm vui thú
Sao mà Hà bá cứ khoe mãi nước sông thu
Đời người tựa như dòng sông trôi, trôi mãi
Ngồi nghĩ một loáng đến tận Tân La
Say tranh cướp rối ren trong mơ
Há lại tin gai góc phủ lên lạc đà bằng đồng
Lúc tỉnh ra, cúi ngẩng một lần mất đi nghìn kiếp
Quay lại nhìn sông đây vẫn uốn lượn
Bác hãy nhìn đôi bờ lá biếc
Lỗ sào từ xưa đến nay lỗ chỗ như tổ ong
Chỉ cần tấm lòng lòng này không dừng lại
Tạo vật tuy điều khiển cũng chẳng làm gì được
Quay thuyền lên ngựa, mọi người đều ra về
Còn nhiều tranh cãi đến lời thầy.
Bát nguyệt thập ngũ nhật khán triều ngũ tuyệt kỳ 4
八月十五日看潮五絕其四
吳兒生長狎濤淵,
冒利忘生不自憐。
東海若知明主意,
應教斥鹵變桑田。
Bát nguyệt thập ngũ nhật khán triều ngũ tuyệt kỳ 4
Ngô nhi sinh trưởng hiệp đào uyên,
Mạo lợi vong sinh bất tự liên.
Đông hải nhược tri minh chủ ý,
Ưng giao xích lỗ biến tang điền.
Bát nguyệt thất nhật sơ nhập Cám quá Hoàng Khủng than
八月七日初入贛過惶恐灘
七千里外二毛人,
十八灘頭一葉身。
山憶喜歡勞遠夢,
地名惶恐泣孤臣。
長風送客添帆腹,
積雨浮舟減石鱗。
便合與官充水手,
此生何止略知津?
Bát nguyệt thất nhật sơ nhập Cám quá Hoàng Khủng than
Thất thiên lý ngoại nhị mao nhân,
Thập bát than đầu nhất diệp thân.
Sơn ức hỉ hoan lao viễn mộng,
Địa danh hoàng khủng khấp cô thần.
Trường phong tống khách thiêm phàm phúc,
Tích vũ phù chu giảm thạch lân.
Tiện hợp dữ quan sung thuỷ thủ,
Thử sinh hà chỉ lược tri tân?
Dịch nghĩa
Hai thứ tóc, người đi ngoài bảy nghìn dặm,
Một thân côi, thác đổ xuống mười tám ghềnh.
Núi nhớ Hỉ hoan đoạ đày viễn mộng,
Đất tên Hoàng khủng lệ khóc cô thần.
Gió ruổi khách cánh buồm mở rộng,
Mưa đầy sông thuyền nhẹ lênh đênh.
Góp sức quan thử làm thuỷ thủ,
Đời trôi xuôi bờ bến là đâu?
Bệnh trung du Tổ Tháp viện
病中遊祖塔院
紫李黃瓜村路香,
烏紗白葛道衣涼。
閉門野寺松陰轉,
欹枕風軒客夢長。
因病得閒殊不惡,
安心是藥更無方。
道人不惜階前水,
借與匏樽自在嘗。
Bệnh trung du Tổ Tháp viện
Tử lý hoàng qua thôn lộ hương,
Ô sa bạch cát đạo y lương.
Bế môn dã tự tùng âm chuyển,
Ỷ chẩm phong hiên khách mộng trường.
Nhân bệnh đắc nhàn thù bất ác,
An tâm thị dược cánh vô phương.
Đạo nhân bất tích giai tiền thuỷ,
Tá dữ bào tôn tự tại thường.
Biệt tuế
別歲
故人适千里,
臨別尚遲遲。
人行猶可復,
歲行那可追。
問歲安所之,
遠在天一涯。
已逐東流水,
赴海歸無時。
東鄰酒初熟,
西舍彘亦肥。
且為一日歡,
慰此窮年悲。
勿嗟舊歲別,
行與新歲辭。
去去勿回顧,
還君老與衰。
Biệt tuế
Cố nhân thích thiên lý,
Lâm biệt thượng trì trì.
Nhân hành do khả phục,
Tuế hành na khả truy.
Vấn tuế an sở chi,
Viễn tại thiên nhất nhai.
Dĩ trục đông lưu thuỷ,
Phó hải quy vô thì.
Đông lân tửu sơ thục,
Tây xá trệ diệc phì.
Thả vi nhất nhật hoan,
Uý thử cùng niên bi.
Vật ta cựu tuế biệt,
Hành dữ tân tuế từ.
Khứ khứ vật hồi cố,
Hoàn quân lão dữ suy.
Dịch nghĩa
Cố nhân lên đường đi xa
Lúc chia tay vẫn còn bịn rịn
Người đi còn mong có ngày trở lại;
Năm tháng ra đi, làm sao đuổi theo kịp?
Hỏi thử, “năm” đi đâu?
Đi xa đến một ven trời nào?
Hay đã theo dòng nước chảy xuôi về đông,
Đổ vào biển và không bao giờ trở lại?
Xóm đông, rượu vừa chín;
Nhà mé tây, lợn nái cũng vừa mập thêm ra
Hãy cứ vui cho hết trọn một ngày
Để bù lại trọn một năm đầy sầu héo.
Đừng quên giã từ một năm cũ,
Và hãy để cho năm cũ giã từ năm mới.
Bảo nó hãy đi đi, đừng có quay đầu lại.
Gởi trả lại nó tuổi già và sức yếu kém.
Cát Tường tự hoa tương lạc nhi Trần Thuật Cổ kỳ bất chí
吉祥寺花將落而陳述古期不至
今歲東風巧剪裁,
含情只待使君來。
對花無語花應恨,
直恐明年花不開
Cát Tường tự hoa tương lạc nhi Trần Thuật Cổ kỳ bất chí
Kim tuế đông phong xảo tiễn tài,
Hàm tình chỉ đãi sứ quân lai.
Đối hoa vô ngữ hoa ưng hận,
Trực khủng minh niên hoa bất khai
Cát Tường tự tăng cầu các danh
吉祥寺僧求閣名
過眼榮枯電與風,
久長那得似花紅。
上人宴坐觀空閣,
觀色觀空色即空
Cát Tường tự tăng cầu các danh
Quá nhãn vinh khô điện dữ phong,
Cửu trường na đắc tự hoa hồng.
Thượng nhân yến toạ quan không các,
Quan sắc quan không sắc tức không.
Cấp giang tiên trà
汲江煎茶
活水還須活水烹,
自臨釣石汲深清。
大瓢貯月歸春甕,
小杓分江入夜瓶。
雪乳已翻煎處腳,
松風忽作瀉時聲。
枯腸未易禁三椀,
臥聽山城長短更。
Cấp giang tiên trà
Hoạt thuỷ hoàn tu hoạt thuỷ phanh,
Tự lâm điếu thạch cấp thâm thanh.
Đại biều trữ nguyệt quy xuân úng,
Tiểu thược phân giang nhập dạ bình.
Tuyết nhũ dĩ phiên tiên xứ cước,
Tùng phong hốt tác tả thời thanh.
Khô tràng vị dị câm tam oản,
Ngoạ thính sơn thành trường đoản canh.
Chính nguyệt chấp nhật dữ Phan, Quách nhị sinh xuất giao tầm xuân, hốt ký khứ niên thị nhật đồng chí Nữ Vương thành tác thi, nãi hoạ tiền vận
正月廿日與潘郭二生出郊尋春,忽記去年是日同至女王城作詩,乃和前韻
東風未肯入東門,
走馬還尋去歲村。
人似秋鴻來有信,
事如春夢了無痕。
江城白酒三杯釅,
野老蒼顏一笑溫。
已約年年為此會,
故人不用賦招魂。
Chính nguyệt chấp nhật dữ Phan, Quách nhị sinh xuất giao tầm xuân, hốt ký khứ niên thị nhật đồng chí Nữ Vương thành tác thi, nãi hoạ tiền vận
Đông phong vị khẳng nhập đông môn,
Tẩu mã hoàn tầm khứ tuế thôn.
Nhân tự thu hồng lai hữu tín,
Sự như xuân mộng liễu vô ngân.
Giang thành bạch tửu tam bôi nghiệm,
Dã lão thương nhan nhất tiếu ôn.
Dĩ ước niên niên vi thử hội,
Cố nhân bất dụng phú “Chiêu hồn”.
Dịch nghĩa
Gió đông còn chưa chịu vào cửa đông
Dong ngựa đi tìm thôn làng năm ngoái
Người như con nhạn, thu đến có tin
Mọi việc như giấc mơ xuân qua đi không dấu vết
Uống ba chén rượu nồng ở Giang Thành
Ông lão quê vẻ mặt tươi tỉnh nụ cười ấm áp
Đã hẹn là hằng năm gặp nhau ở đây
Bạn thân ơi không cần dùng đến bài phú “Chiêu hồn”
Chính nguyệt nhị thập nhất nhật bệnh hậu Thuật Cổ yêu vãng thành ngoại tầm xuân
正月二十一日病後述古邀往城外尋春
屋上山禽苦喚人,
檻前冰沼忽生鱗。
老來厭逐紅裙醉,
病起空驚白髮新。
臥聽使君鳴鼓角,
試呼稚子整冠巾。
曲欄幽榭終寒窘,
一看郊原浩蕩春。
Chính nguyệt nhị thập nhất nhật bệnh hậu Thuật Cổ yêu vãng thành ngoại tầm xuân
Ốc thượng sơn cầm khổ hoán nhân,
Hạm tiền băng chiểu hốt sinh lân.
Lão lai yếm trục hồng quần tuý,
Bệnh khởi không kinh bạch phát tân.
Ngoạ thính sứ quân minh cổ giốc,
Thí hô trĩ tử chỉnh quan cân.
Khúc lan u tạ chung hàn quẫn,
Nhất khán giao nguyên hạo đãng xuân.
Cửu nguyệt nhị thập nhật vi tuyết hoài Tử Do đệ kỳ 1
九月二十日微雪懷子由弟其一
岐陽九月天微雪,
已作蕭條歲暮心。
短日送寒砧杵急,
冷官無事屋廬深。
愁腸別後能消酒,
白髮秋來已上簪。
近買貂裘堪出塞,
忽思乘傳問西琛。
Cửu nguyệt nhị thập nhật vi tuyết hoài Tử Do đệ kỳ 1
Kỳ Dương cửu nguyệt thiên vi tuyết,
Dĩ tác tiêu điều tuế mộ tâm.
Đoản nhật tống hàn châm chử cấp,
Lãnh quan vô sự ốc lư thâm.
Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu,
Bạch phát thu lai dĩ thướng trâm.
Cận mãi điêu cừu kham xuất tái,
Hốt tư thừa truyện vấn tây sâm.
Dịch nghĩa
Tháng chín, tại huyện Kỳ Dương, trời đổ tuyết nhẹ,
Cũng đủ làm cho tâm tình trong cảnh năm già trở nên vẻ xơ xác.
Ngày vắng, tiếng chày xua đuổi cái lạnh nghe như vội vã,
Viên quan nhỏ, không việc gì, ngồi trong nhà tranh hun hút.
Gan ruột sầu héo có thể làm tiêu tan được rượu,
Tóc trắng, mùa thu tới, đã thấy như cài trâm.
Vừa mới bán chiếc áo lạnh lông điêu, nên không dám đi chơi xa,
Bỗng nghĩ đến việc ruổi xe đi tìm cái lạnh.
Cửu nguyệt nhị thập nhật vi tuyết hoài Tử Do đệ kỳ 2
九月二十日微雪懷子由弟其二
江上同舟詩滿篋,
鄭西分馬涕垂膺。
未成報國慚書劍,
豈不懷歸畏友朋。
官舍度秋驚歲晚,
寺樓見雪與誰登。
遙知讀易東窗下,
車馬敲門定不應。
Cửu nguyệt nhị thập nhật vi tuyết hoài Tử Do đệ kỳ 2
Giang thượng đồng chu thi mãn khiếp,
Trịnh tây phân mã thế thuỳ ưng.
Vị thành báo quốc tàm thư kiếm,
Khởi bất hoài quy uý hữu bằng.
Quan xá độ thu kinh tuế vãn,
Tự lâu kiến tuyết dữ thuỳ đăng.
Dao tri độc Dịch đông song hạ,
Xa mã xao môn định bất ưng.
Dịch nghĩa
Năm xưa, hai anh em cùng dong thuyền, xách theo những túi thơ đầy,
Năm ngoái, chia tay nhau rẽ ngựa ngoài cửa tây Trịnh Châu, nước mắt ướt đẫm ngực.
Chưa làm nên sự nghiệp với đời nên thẹn cùng sách và kiếm,
Há không mong trở về; nhưng về lúc này hẳn là ngại với bạn bè.
Nhà quan qua mùa thu, kinh sợ cho năm đã quá xế,
Trên nóc chùa đã đầy tuyết, nhưng không biết rủ ai cùng lên đó.
Tưởng chừng em hẳn ngồi đọc Kinh Dịch bên cửa sổ mái tây,
Lúc đó, dù xe ngựa có đến gõ cửa, hẳn là không đáp lại.
Dạ chí Vĩnh Lạc Văn trưởng lão viện, Văn thì ngoạ bệnh thoái viện
夜至永樂文長老院文時臥病退院
愁聞巴叟臥荒村,
來打三更月下門。
往事過年如昨日,
此身未死得重論。
老非懷土情相得,
病不開堂道益尊。
惟有孤棲舊時鶴,
舉頭見客似長言。
Dạ chí Vĩnh Lạc Văn trưởng lão viện, Văn thì ngoạ bệnh thoái viện
Sầu văn Ba tẩu ngoạ hoang thôn,
Lai đả tam canh nguyệt hạ môn.
Vãng sự quá niên như tạc nhật,
Thử thân vị tử đắc trùng luận.
Lão phi hoài thổ tình tương đắc,
Bệnh bất khai đường đạo ích tôn.
Duy hữu cô thê cựu thì hạc,
Cử đầu kiến khách tự trường ngôn.
Dịch nghĩa
Chừng đêm, hay cụ Ba thục ngoạ bịnh nơi xóm vắng,
Canh ba đến gõ cửa dưới trăng.
Chuyện qua năm trước, trông như vừa hôm qua,
May nhờ cái thân này chưa chết nên được cùng ngài chuyện trò nữa.
Cụ tuổi già mà không phải là hạng bo bo (khép kín miệng) cho nên tình lại càng tương đắc,
Nhưng lúc này cụ bịnh, không khai đường, thì cái đạo của cụ lại càng thêm cao.
Chỉ có con hạc tự năm nào vẫn đứng lẻ loi ở đó,
Ngẩng đầu nhìn khách vẻ như đã nói rất nhiều.
Tô Đông Pha là một người tài năng và ông được đánh giá là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa từ thế kỷ 7 cho tới thế kỷ 13. Và tư tưởng của ông cũng khoáng đạt và tính tình cũng phức tạp nhất. Đừng quên đón đọc những bài thơ hay nhất của Tô Đông Pha bạn nhé!