Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học.
Tô Đông Pha là người nổi tiếng học giỏi và rất thông minh. Năm mười lăm tuổi ông đã thông kinh sử và rất thích đọc sách của Giả Nghị, Lục Chí. Điều này chứng tỏ ông là người rất trọng đạo Nho và có chí giúp nước. Tuy nhiên tính tình của ông rất phức tạp, mâu thuẫn. Để rồi cuộc đời của mình ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho học lẫn Lão, Phật.
Cả cuộc đời của mình Tô Đông Pha dành rất nhiều thời gian để viết thơ và các sáng tác khác. Và theo nhiều nghiên cứu ông có tới 4000 bài thơ, 300 bài từ và nhiều tản văn khác. Tuy nhiên thất lạc cũng là con số khá nhiều.
Và dưới đây tapchivannghe.com sẽ giới thiệu tới bạn những bài thơ hay nhất trong tập thơ Từ của Tô Đông Pha đừng bỏ lỡ nhé!
Bát thanh Cam Châu – Ký Sâm Liêu tử
八聲甘州-寄參寥子
有情風萬里卷潮來,
無情送潮歸。
問錢塘江上,
西興浦口,
幾度斜暉?
不用思量今古,
俯仰昔人非!
誰似東坡老,
白首忘機?
記取西湖西畔,
正暮山好處,
空翠煙霏。
算詩人相得,
如我與君稀。
約他年東還海道,
願謝公雅誌莫相違。
西州路,
不應回首,
為我沾衣。
Bát thanh Cam Châu – Ký Sâm Liêu tử
Hữu tình phong vạn lý quyển triều lai,
Vô tình tống triều quy.
Vấn Tiền Đường giang thượng
Tây Hưng phố khẩu,
Kỷ độ tà huy?
Bất dụng tư lượng kim cổ,
Phủ ngưỡng tích nhân phi!
Thuỳ tự Đông Pha lão,
Bạch thủ vong ky (cơ)?
Ký thủ Tây Hồ tây bạn,
Chính mộ sơn hảo xứ,
Không thuý yên phi.
Toán thi nhân tương đắc,
Như ngã dữ quân hi.
Ước tha niên đông hoàn hải đạo,
Nguyện Tạ Công nhã chí mạc tương vi.
Tây Châu lộ,
Bất ưng hồi thủ,
Vị ngã triêm y.
Bốc toán tử
卜算子
缺月挂疏桐,
漏盡人初靜。
誰見幽人獨來往,
飄渺孤鴻影。
驚起卻回頭,
有恨無人省。
揀盡寒枝不肯棲,
寂寞沙洲冷。
Bốc toán tử
Khuyết nguyệt quái sơ đồng,
Lậu tận nhân sơ tĩnh.
Thuỳ kiến u nhân độc vãng lai,
Phiêu diểu cô hồng ảnh.
Kinh khởi khước hồi đầu,
Hữu hận vô nhân tỉnh.
Giản tận hàn chi bất khẳng thê,
Tịch mịch sa châu đinh.
Bốc vận toán nguyên – Cảm cựu
蔔運算元-感舊
蜀客到江南,
長憶吳山好。
吳蜀風流自古同,
歸去應須早。
還與去年人,
共藉西湖草。
莫惜尊前仔細看,
應是容顏老。
Bốc vận toán nguyên – Cảm cựu
Thục khách đáo Giang Nam,
Trường ức Ngô sơn hảo.
Ngô Thục phong lưu tự cổ đồng,
Quy khứ ưng tu tảo.
Hoàn dữ khứ niên nhân,
Cộng tạ Tây Hồ thảo.
Mạc tích tôn tiền tử tế khan,
Ưng thị dung nhan lão.
Chiêu Quân oán
昭君怨
誰作桓伊三弄,
驚破綠窗幽夢。
新月與愁煙,
滿江天。
欲去又還不去,
明日落花飛絮。
飛絮送行舟,
水東流。
Chiêu Quân oán
Thuỳ tác Hoàn Y tam lộng,
Kinh phá lục song u mộng.
Tân nguyệt dữ sầu yên,
Mãn giang thiên.
Dục khứ hựu hoàn bất khứ,
Minh nhật lạc hoa phi nhứ.
Phi nhứ tống hành chu,
Thuỷ đông lưu.
Dịch nghĩa
Ai làm ba bài Mai Hoa như Hoàn Y
Phá tan những giấc mộng sầu u sau song cửa
Mảnh trăng non cùng với khói buồn
Phủ đầy trời khắp sông
Muốn đi nhưng ở không đi
Ngày mai tơ bay hoa rụng
Tơ bay tiễn thuyền lên đường
Theo dòng nước chảy về đông.
Dương Quan khúc – Lý Công Trạch
陽關曲-李公擇
濟南春好雪初晴。
才到龍山馬足輕。
使君莫忘霅溪女,
還作陽關腸斷聲。
Dương Quan khúc – Lý Công Trạch
Tế Nam xuân hảo tuyết sơ tình,
Tài đáo Long Sơn mã túc khinh.
Sứ quân mạc vong Tráp Khê nữ,
Hoàn tác Dương Quan trường đoạn thanh.
Dương Quan khúc – Quân trung
陽關曲-軍中
受降城下紫髯郎。
戲馬台南舊戰場。
恨君不取契丹首,
金甲牙旗歸故鄉。
Dương Quan khúc – Quân trung
Thụ Hàng thành ngoại tử nhiêm lang,
Hí mã đài nam cựu chiến trường.
Hận quân bất thủ Khiết Đan thủ,
Kim giáp nha kỳ quy cố hương.
Đào Nguyên ức cố nhân – Mộ xuân
桃源憶故人-暮春
華胥夢斷人何處,
聽得鶯啼紅樹。
幾點薔薇香雨,
寂寞閒庭戶。
暖風不解留花住,
片片著人無數。
樓上望春歸去,
芳草迷歸路。
Đào Nguyên ức cố nhân – Mộ xuân
Hoa Tư mộng đoạn nhân hà xứ,
Thính đắc oanh đề hồng thụ.
Kỷ điểm tường vi hương vũ,
Tịch mịch nhàn đình hộ.
Noãn phong bất giải lưu hoa trú,
Phiến phiến trứ nhân vô số.
Lâu thượng vọng xuân quy khứ,
Phương thảo mê quy lộ.
Dịch nghĩa
Giấc mộng Hoa Tư vừa dứt, người ở đâu nhỉ?
Nghe được tiếng chim oanh hót trên cây hồng.
Vài giọt mưa bụi trên hoa tường vi.
Cửa nhà vắng vẻ quạnh hiu.
Gió ấm không biết lưu hoa lại,
Rất nhiều cánh hoa rơi bám vào người.
Trên tầng lầu, nhìn xuân đang đi mất,
Cỏ thơm làm lạc lối về.
Điệp luyến hoa – Xuân tình
蝶戀花-春情
花褪殘紅青杏小,
燕子飛時,
綠水人家繞。
枝上柳棉吹又少,
天涯何處無芳草!
牆裡鞦韆牆外道,
牆外行人,
牆裡佳人笑。
笑漸不聞聲漸悄,
多情卻被無情惱。
Điệp luyến hoa – Xuân tình
Hoa thoái tàn hồng thanh hạnh tiểu,
Yến tử phi thì,
Lục thuỷ nhân gia nhiễu.
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu,
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo.
Tường lý thu thiên, tường ngoại đạo,
Tường ngoại hành nhân,
Tường lý giai nhân tiếu.
Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiễu,
Đa tình khước bị vô tình não.
Định phong ba – Nam Hải quy tặng Vương Định Quốc thị nhân ngụ nương
定風波-南海歸贈王定國侍人寓娘
常羡人間琢玉郎,
天應乞與點酥娘。
自作清歌傳皓齒,
風起,
雪飛炎海變清涼。
萬里歸來年愈少,
微笑,
笑時猶帶嶺梅香。
試問嶺南應不好?
卻道:
此心安處是吾鄉。
Định phong ba – Nam Hải quy tặng Vương Định Quốc thị nhân ngụ nương
Thường tiện nhân gian trác ngọc lang,
Thiên ưng khất dữ điểm tô nương.
Tự tác thanh ca truyền hạo xỉ,
Phong khởi,
Tuyết phi viêm hải biến thanh lương.
Vạn lý quy lai niên dũ thiếu,
Vi tiếu,
Tiếu thì do đới lĩnh mai hương.
Thí vấn Lĩnh Nam ưng bất hảo?
Khước đạo:
Thử tâm an xứ thị ngô hương.
Dịch nghĩa
Thường hay thích những chàng trai tuấn tú ở trên đời,
Trời còn yêu thích gửi tặng thêm một người đẹp.
Người đời truyền tụng giọng ca hay cùng nụ cười đẹp,
Bỗng gió nổi lên,
Tuyết bay tới vùng biển nóng khiến nơi đó thành mát lành.
Nàng trở về từ nơi xa xôi, lại như càng trẻ hơn,
Khi nhoẻn cười,
Nụ cười như còn mang hương thơm của hoa mai vùng Lĩnh Nam.
Ta hỏi nàng rằng phong thổ Lĩnh Nam chắc là không tốt?
Nàng nói rằng,
Nơi nào lòng này an định thì là quê hương ta.
Định phong ba (Mạc thính xuyên lâm đả diệp thanh)
定風波(莫聽穿林打葉聲)
莫聽穿林打葉聲,
何妨吟嘯且徐行。
竹杖芒鞋輕勝馬,
誰怕!
一蓑煙雨任平生。
料峭春風吹酒醒,
微冷,
山頭斜照卻相迎。
回首向來蕭瑟處,
歸去,
也無風雨也無晴。
Định phong ba (Mạc thính xuyên lâm đả diệp thanh)
Mạc thính xuyên lâm đả diệp thanh,
Hà phương ngâm khiếu thả từ hành.
Trúc trượng mang hài khinh thắng mã,
Thuỳ phạ!
Nhất thoa yên vũ nhậm bình sinh.
Liệu tiễu xuân phong xuy tửu tỉnh,
Vi lãnh,
Sơn đầu tà chiếu khước tương nghinh.
Hồi đầu hướng lai tiêu sắt xứ,
Quy khứ,
Dã vô phong vũ dã vô tình.
Động tiên ca
洞仙歌
冰肌玉骨,
自清涼無汗。
水殿風來暗香滿。
繡帘開,
一點明月窺人,
人未寢,
倚枕釵橫鬢亂。
起來攜素手,
庭戶無聲,
時見疏星渡河漢。
試問夜如何?
夜已三更。
金波淡,
玉繩低轉。
但屈指西風幾時來?
又不道流年暗中偷換。
Động tiên ca
Băng cơ ngọc cốt,
Tự thanh lương vô hãn.
Thuỷ điện phong lai ám hương mãn.
Tú liêm khai,
Nhất điểm minh nguyệt khuy nhân,
Nhân vị tẩm,
Y chẩm thoa hoành mấn loạn.
Khởi lai huề tố thủ,
Đình hộ vô thanh,
Thời kiến sơ tinh độ hà Hán.
Thí vấn dạ như hà ?
Dạ dĩ tam canh.
Kim ba đạm,
Ngọc Thằng đê chuyển.
Đán khuất chỉ tây phong kỷ thời lai?
Hựu bất đạo lưu niên ám trung thâu hoán
Giá cô thiên
鷓鴣天
林斷山明竹隱牆,
亂蟬衰草小池塘。
翻空白鳥時時見,
照水紅蕖細細香。
村舍外,
古城旁,
杖藜徐步轉斜陽。
殷勤昨夜三更雨,
又得浮生一日涼。
Giá cô thiên
Lâm đoạn sơn minh trúc ẩn tường,
Loạn thiền suy thảo tiểu trì đường.
Phiên không bạch điểu thời thời kiến,
Chiếu thủy hồng cừ tế tế hương.
Thôn xá ngoại,
Cổ thành bàng,
Trượng lê từ bộ chuyển tà dương.
Ân cần tạc dạ tam canh vũ,
Hựu đắc phù sinh nhất nhật lương.
Dịch nghĩa
Rừng đứt đoạn, núi lộ ra, trúc nấp bờ tường,
Ve kêu rộn rã, cỏ úa trên bờ hồ nhỏ.
Trời muốn nghiêng đổ thấy chim trắng bay về nhiều,
Hoa sen soi trên mặt nước tỏa hương dịu dàng.
Phía ngoài thôn ấp,
Bên cạnh thành xưa,
Gậy lê chậm bước dưới bóng chiều chuyển dần.
Canh ba đêm qua mưa rơi êm ả,
Lại có được một ngày mát mẻ trong kiếp phù sinh.
Giang thành tử – Ất Mão chính nguyệt nhị thập nhật dạ ký mộng
夜來幽夢忽還鄉,
小軒窗,
正梳妝。
相顧無言,
惟有淚千行。
料得年年腸斷處,
明月夜、
短松崗。
Giang thành tử – Ất Mão chính nguyệt nhị thập nhật dạ ký mộng
Thập niên sinh tử lưỡng mang mang,
Bất tư lường,
Tự nan vương.
Thiên lý cô phần,
Vô xứ thoại thê lương.
Túng sử tương phùng ưng bất thức,
Trần mãn diện,
Mấn như sương.
Dạ lai u mộng hốt hoàn hương,
Tiểu hiên song,
Chính sơ trang.
Tương cố vô ngôn,
Duy hữu lệ thiên hàng.
Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ,
Minh nguyệt dạ,
Đoản tùng cương.
Dịch nghĩa
Mười năm sống chết cả hai đều thăm thẳm,
Không suy nghĩ tới,
Nhưng vẫn khó quên được.
Nấm mộ đơn côi cách nơi ngàn dặm xa,
Không nơi kể hết nỗi thê lương.
Nếu như có gặp nhau cũng không nhận ra,
(Vì ta nay) bụi đầy mặt,
Tóc mai như sương.
Đêm qua trong mộng chợt về quê nhà,
Cửa sổ nhỏ dưới hiên nhỏ,
Đang lúc chải đầu.
Nhìn nhau không nói được gì,
Chỉ có nước mắt ngàn hàng.
Giá mà hằng năm ta tới được nơi đau lòng đó,
Những đêm trăng sáng,
Trên đồi thông.
Giang thành tử – Biệt Từ Châu
江城子-別徐州
天涯流落思無窮。
既相逢,
卻匆匆。
攜手佳人,
和淚折殘紅。
為問東風餘幾許?
春縱在,
與誰同?
隋堤三月水溶溶。
背歸鴻,
去吳中。
回首彭城,
清泗與淮通。
欲寄相思千點淚,
流不到,
楚江東。
Giang thành tử – Biệt Từ Châu
Thiên nhai lưu lạc tứ vô cùng.
Ký tương phùng,
Khước thông thông.
Huề thủ giai nhân,
Hoà lệ chiết tàn hồng.
Vi vấn đông phong dư kỷ hử?
Xuân túng tại,
Dữ thuỳ đồng?
Tuỳ đê tam nguyệt thuỷ dung dung.
Bối quy hồng,
Khứ Ngô Trung.
Hồi thủ Bành Thành,
Thanh Tứ dữ Hoài thông.
Dục ký tương tư thiên điểm lệ,
Lưu bất đáo,
Sở Giang Đông.
Giang thành tử – Mật châu xuất liệp
江城子-密州出獵
老夫聊發少年狂,
左牽黃,
右擎蒼,
錦帽貂裘,
千騎卷平岡。
為報傾城隨太守,
親射虎,
看孫郎。
酒酣胸膽尚開張,
鬢微霜,
又何妨!
持節雲中,
何日遣馮唐?
會挽雕弓如滿月,
西北望,
射天狼。
Giang thành tử – Mật châu xuất liệp
Lão phu liễu phát thiếu niên cuồng,
Tả khiên hoàng,
Hữu kình thương,
Cẩm mạo điêu cầu,
Thiên kỵ quyển bình cương.
Vị báo khuynh thành tùy thái thú,
Thân xạ hổ,
Khán Tôn lang.
Tửu hàm hung đởm thượng khai trương,
Mấn vi sương,
Hựu hà phương ?
Trì tiết Vân Trung,
Hà nhật khiển Phùng Đường ?
Hội vãn điêu cung như mãn nguyệt,
Tây bắc vọng,
Xạ Thiên Lang.
Dịch nghĩa
Già này giở thói ngông cuồng của tuổi trẻ,
Tay trái đắt chó vàng,
Tay phải giơ chim ưng xanh,
Mũ gấm áo điêu cầu,
Ngàn quân kỵ cuốn ra gò phẳng.
Để đền đáp người khắp thành đi theo quan thái thú,
Nên tự tay bắn hổ,
Coi vẻ chàng Tôn xưa.
Rượu say gan dạ đang hăng,
Tóc đốm bạc,
Nhưng chẳng hề gì ?
Đến bao giờ lại có chuyện sai Phùng Đường,
Cầm cờ tiết đến Vân Trung ?
Hãy co cung cứng, như vành trăng tròn,
Nhìn về Tây bắc,
Bắn sao Thiên Lang
Trên đây là những bài thơ hay nhất của Tô Đông Pha viết trong tập Từ. Qua tập thơ này bạn có thể hiểu thêm về phong cách sáng tác của nhà thơ. Cũng như hiểu được tại sao văn của ông lại như hành vân lưu thủy, nó vô cùng khoáng đạt và không chịu bất cứ sự trói buộc nào cả. Đừng quên đón đọc những bài viết tiếp theo của chúng tôi để cùng cập nhật những bài thơ hay bạn nhé!