Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1037 tại Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, mất ngày 24 tháng 8 năm 1101 tại Thường Châu. Tô Đông Pha là một nhà văn Trung Quốc, nhà thơ, chính khách nhân cách lớn thời Tống, nhà phật học, thư pháp, họa sĩ, dược học.
Tô Đông Pha có một thời gian làm thông phán ở Hàng Châu và khi đó ông đã cùng với các ông lão quê ngao du sơn thủy. Và ông đã dựng nên một căn nhà ở sườn núi phía đông và lấy hiệu là Đông pha cư sĩ. Và do đó người đời sau cũng gọi ông là Tô Đông Pha. Dưới đây là những bài thơ cuối cùng mà ông viết trong tập thơ Từ của mình.
Song Hà Diệp – Hồ châu Giả Vân lão tiểu kỹ danh Song Hà Diệp
雙荷葉-湖州賈耘老小妓名雙荷葉
雙溪月。
清光偏照雙荷葉。
雙荷葉。
紅心未偶,
綠衣偷結。
背風迎雨流珠滑。
輕舟短棹先秋折。
先秋折。
煙鬟未上,
玉杯微缺。
Song Hà Diệp – Hồ châu Giả Vân lão tiểu kỹ danh Song Hà Diệp
Song khê nguyệt.
Thanh quang thiên chiếu song hà diệp.
Song Hà Diệp.
Hồng tâm vị ngẫu,
Lục y thâu kết.
Bối phong nghênh vũ lưu châu hoạt.
Khinh chu đoản trạo tiên thu chiết.
Tiên thu chiết.
Yên hoàn vị thượng,
Ngọc bôi vi khuyết.
Tây giang nguyệt – Bình Sơn đường
西江月-平山堂
三過平山堂下,
半生彈指聲中。
十年不見老仙翁,
壁上龍蛇飛動。
欲吊文章太守,
仍歌杨柳春風。
休言萭事轉頭空,
未轉頭時皆夢。
Tây giang nguyệt – Bình Sơn đường
Tam quá Bình Sơn đường hạ,
Bán sinh đàn chỉ thanh trung.
Thập niên bất kiến lão tiên ông,
Bích thượng long xà phi động.
Dục điếu Văn chương Thái thú,
Nhưng ca “dương liễu xuân phong”.
Hưu ngôn vạn sự chuyển đầu không,
Vị chuyển đầu thời giai mộng.
Tây giang nguyệt kỳ 1
西江月其一
世事一場大夢,
人生几度秋涼。
夜來風已鳴廊,
看取眉頭鬢上。
酒賤常愁客少,
月明多被雲妨。
中秋誰與共風光,
把盞凄涼北望。
Tây giang nguyệt kỳ 1
Thế sự nhất trường đại mộng,
Nhân sinh kỷ độ thu lương.
Dạ lai phong dĩ minh lang,
Khán thủ my đầu mấn thượng.
Tửu tiện thường sầu khách thiểu,
Nguyệt minh đa bị vân phương.
Trung thu thuỳ dữ cộng phong quang,
Bả trản thê lương bắc vọng.
Tây giang nguyệt kỳ 2 – Trùng cửu
西江月其二-重九
點點樓頭細雨,
重重江外平湖。
當年戲馬會東徐,
今日淒涼南浦。
莫恨黃花未吐,
且教紅粉相扶。
酒闌不必看茱萸,
俯仰人間今古。
Tây giang nguyệt kỳ 2 – Trùng cửu
Điểm điểm lâu đầu tế vũ,
Trùng trùng giang ngoại bình hồ.
Đương niên hí mã hội Đông Từ,
Kim nhật thê lương Nam Phố.
Mạc hận hoàng hoa vị thổ,
Thả giao hồng phấn tương phù.
Tửu lan bất tất khán thù du,
Phủ ngưỡng nhân gian kim cổ.
Dịch nghĩa
Những nóc lâu đài lác đác trong màn mưa nhỏ
Bên kia sông trùng trùng những hồ lăn tăn sóng
Năm xưa ngựa xe tụ hội về Đông Từ
Hôm nay ảm đạm miền Nam Phố
Đừng oán hoa cúc chưa chịu nở
Hãy tạm cùng phấn hồng làm bạn nương nhau
Rượu sắp hết không nên tìm xem nhành thù du
Cúi xuống ngẩng lên xem cho hết chuyện xưa nay ở đời.
Tây giang nguyệt kỳ 3
西江月其三
照野彌彌淺浪,
橫空隱隱層霄。
障泥未解玉驄驕,
我欲醉眠芳草。
可惜一溪風月,
莫教踏碎璚瑤。
解鞍欹枕綠楊橋,
杜宇一聲春曉。
Tây giang nguyệt kỳ 3
Chiếu dã my my thiển lãng,
Hoành không ẩn ẩn tằng tiêu.
Chướng nê vị giải ngọc thông kiêu,
Ngã dục tuý miên phương thảo.
Khả tích nhất khê phong nguyệt,
Mạc giao đạp toái quỳnh dao.
Giải yên y chẩm lục dương kiều,
Đỗ vũ nhất thanh xuân hiểu.
Dịch nghĩa
Trăng chiếu khắp nơi trên cỏ như lớp sóng,
Ngang trời thấp thoáng tầng mây.
Chắn bùn của ngựa ngọc vẫn chưa cởi,
Cỏ thơm khiến ta muốn say ngủ.
Đẹp thay một dòng suối đầy phong nguyệt,
Chớ để cho ai đạp vỡ ngọc quỳnh dao.
Cởi yên ngựa làm gối ở cầu có cây liễu dương,
Một tiếng cuốc kêu buổi sớm xuân.
Thái tang tử
採桑子
多情多感仍多病
多景樓中
樽酒相逢
樂事回頭一笑空
停杯且听琵琶語
細撚輕攏
醉臉春融
斜照江邊一抹紅
Thái tang tử
Đa tình đa cảm nhưng đa bệnh
Đa cảnh lâu trung
Tôn tửu tương phùng
Lạc sự hồi đầu nhất tiếu không
Đình bôi thả thính tỳ bà ngữ
Tế nhiễu khinh lung
Tửu kiểm xuân dung
Tà chiếu giang biên nhất mạt hồng
Thấm viên xuân
沁園春
(赴密州,早行,馬上寄子由)
孤館燈青,
野店雞號,
旅枕夢殘。
漸月華收練,
晨霜耿耿,
雲山摛錦,
朝露漙漙。
世路無窮,
勞生有限。
似此區區長鮮歡。
微吟罷,
憑徵鞍無語,
往事千端。
當時共客長安,
似二陸初來俱少年。
有筆頭千字,
胸中萬卷,
致君堯舜,
此事何難!
用舍由時,
行藏在我,
袖手何妨閒處看?
身長健,
但優遊卒歲,
且斗樽前。
Thấm viên xuân
(Phó Mật Châu, tảo hành, mã thượng ký Tử Do)
Cô quán đăng thanh,
Dã điếm kê hiệu,
Lữ chẩm mộng tàn.
Tiệm nguyệt hoa thu luyện,
Thần sương cảnh cảnh,
Vân sơn cầm cẩm,
Triêu lộ phổ phổ.
Thế lộ vô cùng,
Lao sinh hữu hạn.
Tự thử khu khu trường tiên hoan.
Vi ngâm bãi,
Bằng trưng yên vô ngữ,
Vãng sự thiên đoan.
Đương thời cộng khách Trường Yên (An),
Tự nhị lục sơ lai câu thiếu niên.
Hữu bút đầu thiên tự,
Hung trung vạn quyển,
Trí quân Nghiêu Thuấn,
Thử sự hà nan!
Dụng xả do thời,
Hành tàng tại ngã,
Tụ thủ hà phương nhàn xứ khán ?
Hữu trường kiện,
Đãn ưu du tuất tuế,
Thả đẩu tôn tiền.
Thiếu niên du
少年遊
去年相送,
餘杭門外,
飛雪似楊花,
今年春盡,
楊花似雪,
猶不見還家。
對酒捲簾邀明月,
風露透窗紗,
恰似嫦娥憐雙燕,
分明照,
畫梁斜。
Thiếu niên du
Khứ niên tương tống,
Dư Hàng môn ngoại,
Phi tuyết tự dương hoa,
Kim niên xuân tận,
Dương hoa tự tuyết,
Do bất kiến hoàn gia.
Đối tửu quyển liêm yêu minh nguyệt,
Phong lộ thấu song sa,
Cáp tự Thường Nga liên song yến,
Phân minh chiếu,
Hoạ lương tà.
Dịch nghĩa
Năm ngoái khi chia tay nhau,
Ngoài cửa thành Dư Hàng,
Tuyết bay tựa hoa Dương,
Năm nay xuân hết,
Hoa dương bay, tựa tuyết,
Vẫn chưa thấy trở lại nhà.
Trước cuộc rượu, vén rèm, mời trăng sáng xuống,
Gió sương lọt vào bức màn che cửa sổ,
Dường như ả Hằng Nga yêu đôi én,
Soi sáng khắp,
Từng chỗ chếch của bức tường vẽ.
Thuỷ điệu ca đầu – Hoàng Châu Khoái Tai đình tặng Trương Ác Thuyên
水調歌頭-黃州快哉亭贈張偓佺
落日繡簾卷,
亭下水連空。
知君為我,
新作窗戶濕青紅。
長記平山堂上,
欹枕江南煙雨,
渺渺沒孤鴻。
認得醉翁語,
山色有無中。
一千頃,
都鏡淨,
倒碧峰。
忽然浪起,
掀舞一葉白頭翁。
堪笑蘭台公子,
未解莊生天籟,
剛道有雌雄。
一點浩然氣,
千里快哉風。
Thuỷ điệu ca đầu – Hoàng Châu Khoái Tai đình tặng Trương Ác Thuyên
Lạc nhật tú lâm quyển,
Đình hạ thuỷ liên không.
Tri quân vị ngã,
Tân tác song hộ thấp thanh hồng.
Trường ký bình sơn đường thượng,
Kỳ chẩm Giang Nam yên vũ,
Diểu diểu một cô hồng.
Nhận đắc tuý ông ngữ,
Sơn sắc hữu vô trung.
Nhất thiên khoảnh,
Đô kính phù,
Đảo bích phong.
Hốt nhiên lãng khởi,
Hân vũ nhất diệp bạch đầu ông.
Kham tiếu Lan đài công tử,
Vị giải Trang Sinh thiên lại,
Cương đạo hữu thư hùng.
Nhất điểm hạo nhiên khí,
Thiên lý khoái tai phong.
Thuỷ điệu ca đầu – Trung thu
水調歌頭-中秋
明月幾時有,
把酒問青天。
不知天上宮闕,
今夕是何年。
我欲乘風歸去,
又恐瓊樓玉宇,
高處不勝寒。
起舞弄清影,
何似在人間。
轉朱閣,
低綺戶,
照無眠。
不應有恨,
何事長向別時圓。
人有悲歡離合,
月有陰晴圓缺,
此事古難全。
但願人長久,
千里共嬋娟。
Thuỷ điệu ca đầu – Trung thu
Minh nguyệt kỷ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên.
Ngã dục thừa phong quy khứ,
Hựu khủng quỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thắng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian.
Chuyển chu các,
Đê ỷ hộ,
Chiếu vô miên.
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên.
Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp,
Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Đãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.
Dịch nghĩa
Trăng sáng có từ bao giờ,
Cầm chén rượu hỏi trời xanh.
Không biết là cung điện trên trời,
Đêm nay là năm nào?
Ta muốn cưỡi gió đi,
Lại sợ trên lầu quỳnh điện ngọc,
Nơi cao rét không chịu nổi.
Đứng lên múa, bóng trăng theo người,
Gì vui hơn ở dưới cõi đời.
Soi khắp gác tía,
Ta tà xuống cửa che màn gấm,
Soi cả đến người có bầu tâm sự không ngủ.
Trăng giận gì người,
Tại sao cứ tròn trong những giờ ly biệt.
Người có lúc buồn, vui, tan, hợp,
Trăng có đêm tối, sáng, tròn, khuyết,
Việc này xưa nay khó bề trọn vẹn.
Những mong người lâu dài,
Ngàn dặm cùng chung vẻ đẹp của trăng.
Thuỷ long ngâm – Thứ vận Chương Chất Phu “Dương hoa từ”
水龍吟-次韻章質夫楊花詞
似花還似非花,
也無人惜從教墜。
拋家傍路,
思量卻是,
無情有思。
縈損柔腸,
困酣嬌眼,
欲開還閉。
夢隨風萬里,
尋郎去處,
又還被鶯呼起。
不恨此花飛盡,
恨西園、
落紅難綴。
曉來雨過,
遺蹤何在,
一池萍碎。
春色三分,
二分塵土,
一分流水。
細看來不是楊花,
點點是離人淚。
Thuỷ long ngâm – Thứ vận Chương Chất Phu “Dương hoa từ”
Tự hoa hoàn tự phi hoa,
Dã vô nhân tích tòng giáo truỵ.
Phao gia bàng lộ,
Tư lường khước thị,
Vô tình hữu tứ.
Oanh tổn nhu trường,
Khốn hàm kiều nhãn,
Dục khai hoàn bế.
Mộng tuỳ phong vạn lý,
Tầm lang khứ xứ,
Hựu hoàn bị oanh hô khởi.
Bất hận thử hoa phi tận,
Hận tây viên,
Lạc hồng nan chuế.
Hiểu lai vũ quá,
Di tung hà tại,
Nhất trì bình toái.
Xuân sắc tam phân,
Nhị phân trần thổ,
Nhất phân lưu thuỷ.
Tế khán lai bất thị dương hoa,
Điểm điểm thị ly nhân lệ.
Vĩnh ngộ lạc – Bành Thành dạ túc Yến Tử lâu, mộng Miến Miến, nhân tác thử từ
永遇樂-彭城夜宿燕子樓,夢盼盼,因作此詞
明月如霜,
好風如水,
清景無限。
曲港跳魚,
圓荷瀉露,
寂寞無人見。
紞如三鼓,
鏗然一葉,
黯黯夢雲驚斷。
夜茫茫,
重尋無處,
覺來小園行遍。
天涯倦客,
山中歸路,
望斷故園心眼。
燕子樓空,
佳人何在,
空鎖樓中燕。
古今如夢,
何曾夢覺,
但有舊歡新怨。
異時對,
黃樓夜景,
為余浩歎。
Vĩnh ngộ lạc – Bành Thành dạ túc Yến Tử lâu, mộng Miến Miến, nhân tác thử từ
Minh nguyệt như sương,
Hảo phong như thuỷ,
Thanh cảnh vô hạn.
Khúc cảng khiêu ngư,
Viên hà tả lộ,
Tịch mịch vô nhân kiến.
Đãn như tam cổ,
Khanh nhiên nhất diệp,
Ảm ảm mộng vân kinh đoạn.
Dạ mang mang,
Trùng tầm vô xứ,
Giác lai tiểu viên hành biến.
Thiên nhai quyện khách,
Sơn trung quy lộ,
Vọng đoạn cố viên tâm nhãn.
Yến Tử lâu không,
Giai nhân hà tại,
Không toả lâu trung yến.
Cổ kim như mộng,
Hà tằng mộng giác,
Đãn hữu cựu hoan tân oán.
Dị thời đối,
Hoàng lâu dạ cảnh,
Vi dư hạo thán.
Vọng Giang Nam – Siêu Nhiên đài tác
望江南-超然臺作
春未老,
風細柳斜斜。
試上超然臺上看,
半壕春水一城花,
煙雨暗千家。
寒食後,
酒醒卻咨嗟。
休對故人思故國,
且將新火試新茶,
詩酒趁年華。
Vọng Giang Nam – Siêu Nhiên đài tác
Xuân vị lão,
Phong tế liễu tà tà.
Thí thượng Siêu Nhiên Đài thượng khán,
Bán hào xuân thuỷ nhất thành hoa,
Yên vũ ám thiên gia.
Hàn thực hậu,
Tửu tỉnh khước tư ta.
Hưu đối cố nhân tư cố quốc,
Thả tương tân hoả thí tân trà,
Thi tửu sấn niên hoa.
Trên đây là những bài thơ Tô Đông Pha viết trong tập thơ Từ của mình. Với tập thơ này ta có thể hiểu thêm về phong cách sáng tác cũng như tư tưởng mà nhà thơ muốn gửi gắm trong tác phẩm của mình. Đó chính là một hồn thơ khoáng đạt và siêu thoát và có nhiều vẻ hơn các nhà thơ đương thời.